Thursday, January 17, 2008

MÃI MÃI .. BÊN NHAU

Nơi nghĩa trang thành phố Dallas, bang Texas, Hoa Kỳ, hai ngôi mộ nằm song song cạnh nhau với cùng bia đá khắc hàng chữ: ”David và Kimberley Marshall .. mãi mãi bên nhau. Kết hôn trong vòng ba năm”.

Câu chuyện tình yêu của đôi bạn trẻ David Crenshaw và Kimberley Marshall thật hạnh phúc nhưng cũng thật đau thương.

Ngay từ lọt lòng mẹ, cả hai mắc bệnh di truyền ”nhầy nhớt - mucoviscidose” chưa có phương thuốc chữa trị. Người mắc chứng này bị loại chất nhờn đặc quánh làm tắc nghẽn hai cuống phổi khiến nghẹt thở hoặc ho liên tục.

Nhờ tình thương bao la và sự trợ giúp của mẹ hiền - bà Dawn - bé Kimberley - gọi tắt là Kim - vượt thắng một phần cơn bệnh quái ác. Cô bé có thể cắp sách đến trường và bắt đầu chương trình tiểu học như bao trẻ cùng tuổi. Chưa hết, bé theo học môn khiêu vũ cổ điển và ghi tên trong đội nữ túc cầu thành phố! Bà Dawn còn đi xa hơn trong mộng ước. Như bao bà mẹ trẻ, bà mơ thấy cô con gái cưng lớn lên, tham dự các buổi khiêu vũ tại trường học và rồi .. có chàng sinh viên nào đó để ý đến con bà, yêu con bà, và tỏ tình lần đầu với con bà!Nhưng bác sĩ Robert Kramer - chuyên viên về chứng bệnh nhầy nhớt - cẩn thận cảnh giác đôi vợ chồng trẻ Dawn và Bill chớ nuôi ảo tưởng! Vì dù có dùng hết phương thức trị liệu và con bệnh có thể sống gần như bình thường, nhưng tuổi thọ thường không tới 30!

Bé Kim lớn lên và bước vào tuổi dậy thì. Đây là lúc lời tuyên bố của bác sĩ Kramer ứng nghiệm: thân hình Kim gầy đét và xẹp lép như quả bóng xì hơi. Ông bà Dawn và Bill lại phải đưa con vào nhà thương. Cô bé cẩn thận mang theo cuốn nhật ký. Trong nhật ký, Kim ghi lại những gì xảy ra chung quanh, nhất là cái chết của những thiếu nữ Kim quen biết trong nhà thương. Chẳng hạn Kim viết: ”Wendy qua đời lúc 8 giờ 10 phút sáng nay. Nó đau đớn suốt đêm qua, thật tội nghiệp! Thôi, như thế thì hơn!” Bà Dawn nghĩ rằng Kim viết về những cái chết như cách thức tự chuẩn bị chấp nhận số phận của mình.

Dầu phải vất vả chiến đấu Kim cũng cố gắng học xong bậc trung học như bao thiếu nữ đồng tuổi.Mùa xuân 1986 là mùa xuân đầu tiên đôi bạn trẻ David Crenshaw và Kimberley Marshall gặp nhau.Năm đó Kim 16 và David 18 tuổi. Cả hai được đưa vào nhà thương điều trị về cùng chứng bệnh nhầy nhớt. Giống như Kim, David cũng can đảm phấn đấu để sống bình thường như bao thanh niên tràn đầy sức sống cùng lứa. Thân sinh David tâm sự:- Chúng tôi luôn luôn cư xử với David như thể David mạnh khoẻ. Tôi nghĩ nếu David tráng kiện hơn một chút chắc hẳn nó sẽ lướt thắng được cơn bệnh!Trong vòng ba năm trời, David phải vận dụng mọi tài năng khôn khéo để chinh phục cho bằng được quả tim của Kim. Và chàng chiến thắng. Ngày 17-11-1989 Kim viết trong nhật ký:- Hôm nay, David và con, chúng con trao đổi nụ hôn đầu tiên. Lạy Chúa, xin cho tình yêu chúng con nguyên vẹn và bền vững!Một năm sau - ngày 27-10-1990 - Kimberley Marshall (21 tuổi) tiến lên bàn thờ giao ước tình yêu với David Crenshaw (23 tuổi).

Hiện diện trong Thánh Lễ thành hôn hôm đó, đặc biệt có tất cả các bệnh nhân nhầy nhớt của thành phố Dallas. Mọi người tha thiết cầu nguyện cho đôi tân hôn hưởng nếm hạnh phúc toàn vẹn.Và đúng như lời ước nguyện của mọi người, đôi bạn trẻ David và Kim trải qua tháng ngày hạnh phúc tràn đầy.

Nhưng rồi chuyện phải đến đã đến. Đúng ba năm sau ngày cưới, David ngã bệnh nặng và ngày 26-10-1993, David êm ái trút hơi thở cuối cùng, sau khi âu yếm ngước nhìn hiền thê thân yêu lần cuối. David hưởng dương 26 tuổi.

24 giờ sau khi chôn cất David đến phiên Kim ngã bệnh nặng và ngày 11-11-1993, vào buổi sáng tinh sương, Kim êm ái trút hơi thở cuối cùng. Hưởng dương 24 tuổi. Người ta mặc cho Kim chiếc áo trắng tinh ngày cưới và chôn nàng bên cạnh chồng nàng.Trên bia đá đặt chung cho hai nấm mộ nằm song song, người ta khắc hàng chữ: ”David và Kimberley Marshall .. mãi mãi bên nhau. Thành hôn trong vòng ba năm”.... ”Phúc thay kẻ được chung sống với người vợ thông minh, kẻ không lỗi lầm trong lời ăn tiếng nói và kẻ không phải làm tôi người chẳng xứng với mình. Phúc thay kẻ biết xử sự khôn khéo, kẻ nói mà người ta lắng tai nghe. Người tìm được khôn ngoan cao cả biết chừng nào nhưng vẫn chưa bằng người kính sợ THIÊN CHÚA. Lòng kính sợ THIÊN CHÚA thì vượt trên tất cả, ai sánh được với kẻ biết kính sợ Người?” (Sách Huấn Ca 25, 8-11).

(”Reader's Digest Sélection”, 7/1995, trang 109-114)Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Đức Thánh Cha kêu gọi tái khám phá ra ý nghĩa của Ngày Chúa Nhật

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã đưa ra lời kệu goi trên đây trong bài giảng thánh lễ tại nhà thờ chính tòa thánh Stephano trong thủ đô Vienne sáng Chúa Nhật 9-9-2007.

Lúc 9 giờ 15 phút sáng 9-9-207 Đức Thánh Cha đã rời Tòa Sứ Thần Tòa Thánh đi xe đến nhà thờ chính tòa thánh Stephano nằm cách đó 3 cây số, để chủ sự thánh lễ. Hàng chục ngàn người đã đứng chờ ĐTC dưới trời mưa chung quanh nhà thờ chính tòa và tham dự thánh lễ qua các màn truyền hình lớn.

Nhà thờ chính tòa thánh Stephano của thủ đô Vienne được xây theo kiểu roman hồi đầu thế kỷ thứ XII. Nhưng sau khi bị cháy năm 1258 nó được xây lại theo kiểu gô tích, và là ngôi nhà thờ biểu tượng đẹp nhất nước Áo, có chỗ cho 3.000 người. Nhà thờ đã được tu sửa nhiều lần, đặc biệt sau khi bị dội bom hồi năm 1945. Mặt tiền có hai tháp cao 61 mét và tháp chuông cao 136 nét có qủa chuông ”Pummerin” nặng 21 tấn, được đúc năm 1711 với đồng lấy từ các khẩu đại bác của quân Hồi Ottoman. Bên trong có các tác phẩm nghệ thuật rất cổ kính thuộc các thế thế kỷ XIV và XV như tượng Đức Mẹ các tôi tớ năm, toà giảng, tượng Đức Bà áo choàng và 72 bức tượng các thánh trong gian giữa. Trong nhà thờ cũng có mộ của Eugenio Savoia và mộ các vua nhà Asburgo dưới hầm nhà thờ. Ca đoàn nhà thờ chính tòa có ban nhạc đệm đã hát bộ lễ ”Messa Cellensis”, bộ lễ Đức Bà Mariazell, do nhạc sĩ Joseph Haydn sáng tác kính Đức Mẹ năm 1782.

Giảng trong thánh lễ Đức Thánh Cha đã quảng diễn các bài đọc Chúa Nhật thứ XXIII Thường Niên năm C và nhấn mạnh trên ý nghĩa của việc cử hành bí tích Thánh Thể ngày Chúa Nhật. Ngài nhắc lại câu nói của các kitô hữu thành Abitene bên Thổ Nhĩ Kỳ, bị bắt đang khi tu tập nhau tham dự thánh lễ Chúa Nhật hồi năm 304. Khi bị điệu ra xét xử họ nói với quan tòa: ” ”Sine dominico non possumus!” Không có ơn Chúa, không có Ngày của Chúa, chúng tôi không thể sống được. Đức Thánh Cha nhấn mạnh trên ý nghĩa của từ ”Chúa Nhật” như sau: Trong từ ”Chúa nhật” có hai từ giao thoa không thể tách rời nhau, mà chúng ta phải tập hiểu trở lại sự hiệp nhất của chúng. Trước hết là có ơn Chúa, ơn đó là chính Chúa: Đấng Phục Sinh, mà kitô hữu cần tiếp xúc và gần gũi để là chính mình. Nhưng đây không chỉ là sự gần gũi tinh thần, thiêng liêng nội tại, chủ quan: việc gặp gỡ với Chúa được ghi dấu trong thời gian, qua một ngày chính xác. Chính qua cách thế đó, nó được khắc ghi trong cuộc sống cụ thể, trong cuộc sống thân xác và cộng đoàn của chúng ta: đó là tính cách thời gian. Nó trao ban cho chúng ta thời gian và như thế ban cho toàn cuộc sống chúng ta một trung tâm, một trật tự nội tại. Đối với các kitô hữu nói trên việc cử hành bí tích Thánh Thể không phải là một điều luật, mà là sự cần thiết nội tại. Không có Đấng nâng đỡ cuộc sống chúng ta với tình yêu thương của Người, thì chính cuộc sống cũng trở thành trống rỗng.

Chúng ta cũng cần tiếp xúc với Chúa Phục Sinh, là Đấng nâng đỡ chúng ta cho tới bên kia cái chết. Chúng ta cần sự gặp gỡ ấy, sự gặp gỡ nối kết và ban cho chúng ta một khoảng trống tự do, giúp hướng nhìn tới tình yêu thương tạo dựng của Thiên Chúa, là nguồn gốc và cứu cánh của chúng ta bên kia các hoạt động của cuộc sống thường ngày.

Đức Thánh Cha nói tiếp trong bài giảng như sau: Lời Chúa Giêsu mời gọi từ bỏ mọi sự để theo Ngài, hướng tới mọi tín hữu, nhưng không đòi hỏi mọi người như nhau. Mỗi người có nhiệm vụ riêng và kiểu theo Chúa riêng. Trong Phúc Âm hôm nay Chúa Giêsu trực tiếp đề cập tới ơn gọi đặc biệt của Mười Hai Tông Đồ. Trước hết các vị phải thắng vượt sự vấp phạm của thập giá, sẵn sàng từ bỏ mọi sự và chấp nhận sứ mệnh đi tới tận cùng bờ cõi trái đất, với vốn liếng văn hóa ít ỏi của mình, để loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô cho một thế giới đầy dẫy những người thông thái thật hay thông thái giả; đặc biệt loan báo cho những người nghèo khổ và đơn sơ. Các vị phải sẵn sàng chịu tử đạo, để làm chứng cho Tin Mừng của Chúa chịu đóng đinh và phục sinh. Nhưng nếu lời của Chúa Giêsu trước hết hướng tới Mười Hai Tông Đồ, thì lời kêu mời đó vượt ngoài thời điểm lịch sử và mọi thế kỷ... Chỉ cần nghĩ tới các người như thánh Biển Đức và Scolastica, thánh Phanxico và thánh Clara, thánh Elisabét thành Thueringen và Hét vích Slesia, thánh Ignatio thành Loyola và thánh Terexa thành Avila, Mẹ Terexa Calcutta và cha Pio. Với toàn cuộc sống của mình, các vị đã giải thích lời Chúa Giêsu và khiến cho lời Ngài gần gũi, dễ hiểu đối với chúng ta. Chúng ta cũng hãy cầu nguyện để trong thời đại này cũng có nhiều người có can đảm từ bỏ tất cả để sẵn sàng tận hiến cho tha nhân.

Tuy nhiên, điều Chúa Giêsu muốn có giá trị đối với tất cả mọi người: ”Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, nhưng ai mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ được cứu thoát. Được lời lãi cả thế gian mà mất chính mình thì ích lợi gì cho con người? (Lc 9,24 tt). Chỉ có ai biết tự hiến mới được sống. Chỉ những ai yêu thương mới tìm thấy sự sống. Và tình yêu luôn luôn đòi hỏi phải từ bỏ và ra khỏi chính mình... Chỉ có tình yêu của Thiên Chúa, là Đấng đã mất chính mình vì chúng ta bằng cách tự nộp mình cho chúng ta, mới khiến cho chúng ta được tự do, từ bỏ sự sống, và như thế tìm lại đuợc sự sống đích thực.

Nhận xét về cung cách sống ngày Chúa Nhật trong xã hội ngày nay, Đức Thánh Cha nói: Trong thế giới tây âu của chúng ta ngày Chúa Nhật đã trở thành một cuối tuần, thành giờ rảnh rỗi. Thời giờ rãnh rỗi, đặc biệt trong cái vội vã của thế giới tân tiến, chắc chắn là điều tốt đẹp và cần thiết. Nhưng nếu thời giờ rảnh rỗi không có một trung tâm nội tại, từ đó phát xuất ra một định hướng cho toàn cuộc sống, thì rốt cuộc nó cũng trở thành thời giờ trống rỗng, không củng cố và làm giầu cho chúng ta. Thời giờ rảnh rỗi cần có một trung tâm là sự gặp gỡ với Đấng là nguồn gốc và cùng đích của chúng ta. Vị tiền nhiệm của tôi tại giáo phận Muenchen là ĐHY Faulhaber, đã diễn tả nó như thế này: ”Trao ban cho linh hồn ngày Chúa Nhật của nó, trao ban cho ngày Chúa Nhật linh hồn của nó”.

Và Đức Thánh Cha kết thúc bài giảng như sau: Chính vì ngày Chúa Nhật trong ý nghĩa sâu thẳm của nó là thời gian gặp gỡ Chúa Kitô phục sinh trong Lời Chúa và trong Bí Tích, tia sáng của nó ôm trọn toàn thực tại cuộc sống. Các kitô hữu tiên khởi đã cử hành ngày Chúa Nhật như là ngày thứ nhất trong tuần, bời vì đó là ngày Chúa phục sinh. Nhưng Giáo Hội cũng đã sớm ý thức được sự kiện ngày thứ nhất trong tuần cũng là ngày của buổi sáng tao dựng, ngày Chúa nói: ”Hãy có ánh sáng!” (St 1,3). Vì thế Chúa Nhật, trong Giáo Hội, cũng là ngày lễ hàng tuần của sự tạo dựng, lễ của lòng biết ơn và của niềm vui, vì công trình tạo dựng của Thiên Chúa. Trong một thời đại, trong đó, do các can thiệp của loài người chúng ta, thụ tạo xem ra gặp nguy hiểm, chúng ta phải ý thức tiếp nhận chiều kích này của ngày Chúa Nhật. Đối với Giáo Hội thời khai sinh, ngày thứ nhất dần dần cũng mang ý nghĩa của ngày thứ bẩy, là ngày sabbat. Chúng ta tham dự vào việc nghỉ ngơi của Thiên Chúa, một sự nghỉ ngơi bao bọc tất cả mọi người. Như thế chúng ta nhận ra trong ngày này một cái gì đó của sự tự do và bình đằng giữa tất cả mọi thụ tạo của Thiên Chúa.

Sau thánh lễ Đức Thánh Cha đã ra khán đài cạnh nhà thờ để ngỏ lời với tín hữu trước khi hát kinh Truyền Tin theo một âm điệu cổ xưa bằng tiếng Đức, rồi ban phép lành cho mọi người. Ngài đã cám ơn tất cả những ai đã đóng góp cho buổi cử hành phụng vụ được trang trọng sốt sắng. Đức Thánh Cha mời gọi mọi người noi gương Mẹ Maria lắng nghe lời Chúa, tiếp nhận Chúa và đem Chúa đến cho tha nhân. Một vài trẻ em thuộc tổ chức Missio đã tặng ĐTC một tập tranh do các em vẽ. Đức Thánh Cha đã bắt tay nhiều tín hữu đứng hai bên đường đến tòa tổng Giám Mục, sau đó ngài dùng bữa trưa với các GM và đoàn tùy tùng.

Linh Tiến Khải

THIẾU NIÊN ANH HÙNG TRONG THỬ THÁCH

Aldo Marcozzi sinh năm 1914 và qua đời năm 1928, tại Milano (Bắc Ý), sau tai nạn xe hơi trầm trọng. Mấy tháng trời ròng rã phải chịu đau đớn, nhưng cậu thiếu niên 14 tuổi không hé môi than trách. Trái lại, cậu luôn tỏ ra can đảm và vui tươi để an ủi Mẹ. Thỉnh thoảng Aldo nói đùa với Mẹ:- Rất may là con ngồi đàng trước, nên bị dập mũi. Nếu không thì chính Mẹ bị đó!

Aldo hoan hỉ tươi vui cho tới giây phút cuối cùng của cuộc đời. Khi đến giờ Chúa gọi, cậu thầm thì:- Con sung sướng được chết.

Trước đó, khi có người tỏ ra cảm thương vì thấy cậu phải chịu nhiều đau đớn, Aldo bình tĩnh nói:- Nỗi đau đớn của con không là gì, nếu so sánh với Đức Chúa GIÊSU, bị người ta đóng đinh nơi tay và chân.Sở dĩ Aldo đạt được tới mức độ chịu bệnh anh hùng là nhờ biết sống đứng đắn, không đùa chơi với cuộc đời. Một người bạn nói về Aldo:- Aldo biết sống vì đã luôn luôn nói chuyện với Chúa và chỉ nói duy nhất với Chúa mà thôi.

Aldo kín múc niềm hạnh phúc nơi chính suối nguồn hạnh phúc là THIÊN CHÚA. Một lần, một giáo sư ngạc nhiên hỏi Aldo:- Em luôn luôn tươi cười như vậy sao?Aldo lúng túng, đỏ mặt trả lời:- Em cười luôn vì em sung sướng được sống!Thật ra, Aldo Marcozzi sống tử tế, sống hạnh phúc, trước tiên là nhờ công lao giáo dục nghiêm chỉnh của Cha Mẹ. Một lần cậu bé đập vỡ cửa kính, đã bị Cha cậu nghiêm khắc la rầy và trừng phạt. Ngay chính lúc đó, cậu bé vô cùng đắng cay, đau khổ. Nhưng hồi tâm nghĩ lại, Aldo khiêm tốn nhận chịu lỗi lầm, ăn năn thống hối, và viết thư xin lỗi thân phụ. Một lần khác, Aldo cũng làm phật lòng Mẹ và đã hối hận viết thư xin lỗi Mẹ:- Mẹ yêu dấu, vừa rồi con trả lời Mẹ cách hỗn xược. Mẹ không la mắng con, nhưng Mẹ chỉ tỏ lộ nét mặt nghiêm nghị, khiến con cảm thấy vô cùng đau đớn. Giờ đây con thật lòng ăn năn thống hối và xin Mẹ tha thứ lỗi lầm cho con. Lần sau, con xin hứa sẽ không tái phạm nữa. Bởi vì, thật buồn lòng khi đứa trẻ không ngoan ngoãn, làm cho Mẹ nó phải tỏ ra nghiêm nghị. Con Aldo của Mẹ.

Lá thư thứ hai, Aldo viết cho Ba:- Ba yêu dấu. Con xin lỗi Ba. Con thấy Ba thật nổi giận. Điều này khiến con cảm thấy vô cùng ân hận. Xin Ba tha lỗi cho con. Con sẽ không bao giờ nghịch ngợm như thế nữa. Con yêu Ba nhiều lắm, nhiều lắm, nhiều nhất, nhiều hơn mọi người. Ba là Cha dấu ái của con và Ba chiếm chỗ rất lớn trong trái tim con. Hôn Ba. Con của Ba. Aldo.

Hai bức thư chứng tỏ cậu thiếu niên Aldo Marcozzi may mắn sinh ra trong gia đình Công Giáo thật đạo đức. Ngay từ khi biết bập bẹ hai tiếng ”Mẹ ơi” thì bé Aldo cũng được Mẹ dạy gọi danh thánh MARIA. Rồi kể từ khi lên 9, nghĩa là sau khi xưng tội và rước lễ lần đầu, bé Aldo có thói quen quì gối và lần trọn tràng chuỗi Mân Côi 150 hạt.

Bé Aldo rất yêu thích đi học và xem trường học là nơi chốn thánh thiêng. Cậu không bao giờ bỏ học, hoặc trốn học. Và Aldo sống nghiêm chỉnh như thế cho đến khi gặp tai nạn trầm trọng. Trong những tháng ngày nằm trên giường bệnh, Aldo thường tỏ ra vui vẻ để an ủi Mẹ.

Nhưng để được can đảm như thế, Aldo kín múc sức mạnh nơi Hiền Mẫu Thiên Quốc là Đức Trinh Nữ Rất Thánh MARIA. Trên bức tường nơi giường nằm của Aldo có treo khung ảnh Đức Mẹ. Mỗi ngày Aldo hôn kính bức ảnh không biết bao nhiêu lần. Khi cậu thiếu niên qua đời, người ta mới để ý thấy trên bức tường, hai bên khung ảnh Đức Mẹ, có hai vết ghi đậm hai bàn tay của Aldo chống vào, làm thế tựa, để hôn kính bức ảnh Đức Mẹ MARIA.Có thể nói, cậu thiếu niên Aldo Marcozzi thật sự si tình THIÊN CHÚA và Đức Trinh Nữ MARIA.... ”

Người công chính dù có chết non, cũng vẫn được an nghỉ. Vì tuổi thọ đáng kính không phải bởi sống lâu, cũng không do số tuổi. Đối với con người, sự khôn ngoan còn quý hơn tóc bạc, sống không tì ố đã là sống thọ. Người công chính đẹp lòng THIÊN CHÚA nên được THIÊN CHÚA yêu thương. Vì họ sống giữa những kẻ tội lỗi, nên được THIÊN CHÚA dời đi nơi khác.

Người đã cất họ đi, kẻo trí khôn họ bị thói gian ác biến đổi, hay tâm hồn họ bị tật xảo trá phỉnh lừa. Vì sức mê hoặc của sự ác làm lu mờ sự thiện, và dục vọng quay cuồng biến đổi tâm hồn chất phác” (Sách Khôn Ngoan 4,7-12).

(P. Luigi Faccenda, ”Testimoni di Maria”, Edizioni dell'Immacolata, 1993, trang 67-71)
Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt