Wednesday, October 27, 2010

Vấn đề Thánh nhạc

Ngày xưa, những người có “máu nhạc” bị gán cho biệt danh “xướng ca vô loài”, tức là bị chê tới mức tối đa. Nhưng ngày nay, cũng người “vô loài” ấy lại được đề cao và được “khao khát”. Đối với Công giáo, từ thời ĐGH Gregoria, âm nhạc được trọng dụng và được đưa vào phụng vụ – gọi là Bình ca và Thánh nhạc. Như vậy, âm nhạc Công giáo mang tính thánh thiện, như thánh Augustinô đã so sánh: “Hát là cầu nguyện hai lần”.

Thực ra tự thân âm nhạc không xấu, vì âm nhạc là quốc tế ngữ. Nó bị coi là xấu chỉ vì người sử dụng nó không đúng thôi!

Từ nhỏ, không hiểu sao tôi đã rất thích nghe nhạc trên sóng phát thanh, dù thân nhân không ai có “máu nhạc”. Tôi cũng bị coi là “không giống ai”, một dạng “vô loài”. Và rồi tôi tự tìm hiểu âm nhạc qua các tài liệu của Ns Thiên Quang và Lm Ns Kim Long. Mỗi đêm, tôi tự mày mò tập đánh Harmonium “rách nát” của một nhà thờ nhỏ với chiếc đèn dầu leo lét. Rồi tôi bắt đầu viết thánh ca khi 16 tuổi, viết nhiều dù còn “non nớt” (về mọi mặt), tôi viết trước khi được thọ giáo Ns Hùng Lân. Tôi viết nhiều hơn khi tôi làm ca trưởng suốt thập niên 1980 và 1990. Lúc đó, tôi viết trước tiên là do nhu cầu thực tế của các giáo xứ, vì ở vùng quê lúc đó thiếu thốn đủ thứ!

Với thực tế sáng tác của mình, tôi tự thấy một nghịch lý: Khi cảm thấy tâm hồn an thái và lòng đạo đức tăng thì tôi không viết được gì, ráng cách mấy cũng… “bó tay”! Nhưng khi tôi thấy mình tội lỗi, khô khan và nguội lạnh thì tôi lại khả dĩ viết những bài thánh ca “có hồn”, đượm chất đạo đức và thánh thiện. Có lẽ chính nhờ cảm giác ray rứt, cũng có thể đó là lời cầu nguyện thống thiết của một gã-lãng-du-tội-lỗi trong tôi. Nhưng đó là một nghịch-lý-thuận. Vâng, “ở đâu càng tội lỗi thì càng nhiều ân sủng” (Thánh Phaolô).

Tuy nhiên, viết đã khó rồi, phổ biến tác phẩm càng khó hơn nhiều, thậm chí là rất “gay go”. Muốn phổ biến tác phẩm âm nhạc thì phải “quen biết” và có tài chính. Nhạc đời đã vậy, thánh ca cũng không hơn gì. Rất nhiều thánh ca của tôi đã được Đức cố GM Phaolô Maria Nguyễn Minh Nhật (Xuân lộc) cho Imprimatur mà vẫn “nằm im” trong tập bản thảo. Nếu không có “máu” thì rất dễ nản chí và “xuống tay”!

Khỏang gần 20 năm trước, Đài Veritas (Chân lý) phát một số thánh ca của tôi trên làn sóng. Họ hứa sẽ thu vào băng và chuyển về cho tôi, anh bạn tôi nghe đài và cũng nghe được lời hứa đó. Nhưng đó chỉ là “lời-hứa-ở-thì-tương-lai”, nghĩa là không bao giờ có thì hiện tại. Nhà Đạo còn vậy huống chi… nhà Đời! Sự thật luôn mất lòng. Quá phũ phàng!

Tôi không có ý phê phán hay chê trách ai mà chỉ bày tỏ tâm sự rất thật riêng tôi mà thôi!

Tất nhiên, là con người nên vẫn đầy tham-sân-si, khó tránh khỏi tình cảm riêng. Nhưng cần làm sao cho ở mức “phải chăng” thôi. Tôi chợt nhớ câu nói của đại văn hào Shakespeare: “Về sự nổi tiếng, có người sinh ra và được nó rơi vào mình, có người tìm mãi cũng thấy, nhưng có người tìm cả đời cũng không thấy”. Ở đây người viết không có “ý đồ” theo kiểu nổi tiếng trần tục, mà chỉ muốn chia sẻ với cả tấm chân tình…

Dâng Thiên Chúa khúc tân ca

Là lời cảm tạ lòng Cha nhân lành

Dù cho lạc điệu, sai vần

Nhưng rất chân thành phận cát bụi con!

Ngày 29/9/2010, lễ kính các Tổng lãnh Thiên thần. Nghe người chị tinh thần nói: “Chị nghe dạo nhạc là chị đoán lễ về Thiên thần”. Tôi lấy làm lạ vì Thánh ca về Thiên thần rất hiếm. Buổi chiều, tôi dự Thánh lễ, và tôi “giật mình” khi nghe ca đoàn hát bài về Chúa Thánh Thần. Thì ra vậy!

Điều đó chứng tỏ người có trách nhiệm với ca đoàn không hiểu đúng Phụng vụ, không phân biệt Thánh Thần và Thiên thần. Và nếu vậy thì sai tín lý Công giáo!

Ngày xưa, người đệm đàn trong nhà thờ không phải chỉ biết đánh đàn mà còn phải biết phụng vụ. Ngày nay đã thoải mái hơn, thế nên có khi người đệm đàn hoặc ca trưởng có thể có những người thiếu kiến thức về phụng vụ.

Trước đây, tôi thấy có linh mục (một giáo xứ thuộc giáo phận Xuân lộc) đích thân tập hát cho cộng đoàn hát bài Dâng về Mẹ (Con dâng về Mẹ một niềm tin yêu bao la…) làm bài ca dâng lễ, và thường sử dụng như vậy. Tại một nhà thờ thuộc giáo hạt Gia định, giáo phận Saigon, tôi thấy ca đoàn sử dụng bài Lời Thiêng (Lời thiêng dâng Chúa từ trong đáy tim âm thầm…) làm ca dâng lễ. Một số nhà thờ cũng đã và đang sử dụng bài này làm ca dâng lễ (sic!). Có lẽ do điệp khúc bài Lời Thiêng có câu “Bàn tay con nâng lên cao, dâng Chúa hết những ý nghĩ, dâng Chúa trót xác thân con…” nên họ cho đó là ca dâng lễ!

Thực ra bài Dâng về Mẹ là bài tôn kính và cầu nguyện với Đức Mẹ, bài Lời Thiêng chỉ nói lên tâm nguyện con người đối với Chúa và là dạng bài Ca nguyện. Giáo hội bớt khắt khe hơn trước nhưng không phải vì vậy mà tự do thái quá, không phải cứ thấy bài nào có chữ DÂNG là cứ “vô tư” sử dụng làm ca dâng lễ.

Về phần lời ca, như bài Con chỉ là tạo vật (Phanxicô) vẫn thấy các ca đoàn “vô tư” hát: Lạy Chúa, con chỉ là tạo vật… Chúng ta không thể là TẠO VẬT mà chỉ là THỤ TẠO, vì Tạo vật là Tạo hóa – tức Thiên Chúa, theo cách gọi của Công giáo. Ngữ nghĩa đã bị hiểu sai lệch, riết rồi quen, nhưng không lẽ cứ “quen” mãi một thói quen “lệch lạc” như vậy? Dục Tử nói: “Thấy đúng mà không theo thì là DỞ, thấy sai mà không sửa thì là MÊ”.

Mong sao thánh ca được sử dụng đúng phụng vụ hơn. Đừng khinh suất!

Thomas Aquinas TRẦM THIÊN THU

Monday, October 25, 2010

SỰ HỢP LÝ CỦA THƯỢNG ĐẾ

Chuyện phiếm của Gã Siêu.

Báo “Kiến Thức Ngày Nay” số 636, ra ngày 10 tháng 4 năm 2008, trong mục “suy ngẫm”, tác giả Hải Âu đã sưu tầm được một mẩu ngăn ngắn, mà gã xin mượn tạm để trình làng:
“Thử nghĩ mà xem, Thượng Đế cấu tạo cơ thể con người một cách rất hợp lý, nhưng sao chúng ta lại không sử dụng nó theo đúng ý của Ngài:

- Ngài đặt hai mắt chúng ta ở đằng trước, vì Ngài muốn chúng ta luôn hướng tới phía trước, chứ không phải để chúng ta cứ ngoái nhìn về những sự việc ở phía sau.
- Ngài đặt hai tai chúng ta ở hai bên là để chúng ta nghe từ hai phía, cả lời khen lẫn tiếng chê, chứ không phải để chúng ta chỉ nghe từ một phía hoặc chỉ để nghe những lời tâng bốc êm tai.
- Ngài tạo cho chúng ta chỉ một cái miệng và một cái lưỡi mềm mại, vì Ngài muốn chúng ta nói ít nghe nhiều và chỉ nói những lời khôn ngoan, chứ không phải để chúng ta nói nhiều hơn nghe và nói những lời sâu hiểm làm tổn thương người khác.
- Ngài đặt bộ não chúng ta trong một hộp sọ vững chãi vì Ngài muốn chúng ta nên tích lũy tri thức, những thứ chẳng ai có thể lấy đi, chứ không phải chỉ chăm lo tích lũy những của cải bên ngoài, những thứ dễ dàng bị mất mát.
- Ngài đặt trái tim chúng ta nằm trong lồng ngực, vì Ngài muốn những tình cảm yêu thương giữa những con người phải được xuất phát và lưu giữ tận nơi sâu thẳm trong cõi lòng, chứ không phải ở một nơi hời hợt bên ngoài.

Để thực hiện đúng với đề mục “suy ngẫm” mà người sưu tầm đã mong muốn, gã sẽ ngẫm suy về ba cơ quan trên khuôn mặt của mỗi người, đó là mắt, tai và miệng, còn bộ óc và trái tim, xin khất tới một lần khác.

TRƯỚC HẾT LÀ HAI CON MẮT

Đây là một bộ phận thường được phe đờn bà con gái tận tình chiếu cố và ra sức làm đẹp. Về lông mày, người ta nắn nót tỉa bớt những cọng mọc vô tổ chức, để có được hàng lông mày xinh xinh như chiếc lá liễu. Có kẻ còn chịu khó nhổ phắt đi, rồi xâm vô đó, để có được hàng lông mày vừa đẹp như ý muốn, lại vừa bền vững với thời gian. Về lông mi, người ta cũng chịu khó đeo thêm hàng mi giả, để mỗi khi chớp mắt, thì ra dáng…con nai vàng ngơ ngác. Về màu sắc, người ta tô quầng cho thêm phần âm u huyền bí, người ta nhỏ thuốc cho thêm phần ngây thơ mơ mộng… Ngoài ra, để bảo vệ cũng như để làm đẹp cho cặp mắt, người ta còn tròng thêm cho chúng những cặp kính, đủ mọi kích cỡ, đủ mọi màu sắc. Xanh, xám, hồng…Giống như những thiên kiến, những màu sắc này phần nào ngăn trở, khiến chúng ta không còn nhìn thấy rõ sự thật. Tuy nhiên điều quan trọng là công dụng của cặp mắt. Dĩ nhiên, mắt là để nhìn. Nhưng nhìn cái gì mới là vấn đề.

Thiên hạ thường bảo:
- Con mắt là cửa sổ của linh hồn.

Khung cửa sổ được mở ra để đón nhận những tia nắng hồng cho căn phòng bớt tăm tối và những luồng gió mát cho căn phòng thêm phần thông thoáng và dễ chịu. Cũng vậy, cặp mắt được mở ra để đón nhận những hình ảnh đẹp, thâu lượm những kiến thức làm giàu cho bản thân và cuộc sống.

Tuy nhiên, như khung cửa sổ phải lập tức đóng lại khi cuồng phong nổi lên và cơn mưa trút xuống, chúng ta cũng phải nhắm mắt lại trước những hình ảnh xấu xa, làm vẩn đục tâm hồn và làm nhơ nhớp cuộc sống. Chính vì thế, một tác giả đã viết:
- Cặp mắt là mai mối của tội lỗi.

Từ đó gã hiểu được rằng tại sao Đức Kitô lại có một thái độ thật nghiêm khắc:
- Nếu mắt phải của ngươi làm cớ cho ngươi sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. (Mt 5,29).

Viết tới đây, gã nhớ tới một mẩu truyện trong sách “Cổ Học Tinh Hoa”, đại khái như thế này:

Lư phu nhân, vợ ông Phòng Huyền Linh, là người tuyệt đẹp và có đức hạnh. Khi còn trẻ, ông hàn vi lắm. Lúc lâm bệnh nặng tưởng chừng như đã sắp chết, ông gọi Lư thị đến mà bảo:
- Tôi bị bệnh nguy quá, nàng tuổi còn trẻ, không nên ở vậy, liệu mà ăn ở tử tế với người chồng sau.
Lư thị nghe nói, nức nở khóc. Đoạn vào trong màn khoét một mắt bỏ đi, có ý tỏ cho chồng biết rằng dù chồng bất hạnh có chết, cũng quyết chí không lấy ai nữa.

Chẳng bao lâu, ông Huyền Linh khỏi bệnh. Sau ông thi đỗ, làm quan đến chức tể tướng. Ông một niềm yêu mến, kính trọng Lư thị vô cùng, không hề lấy một tì thiếp nào nữa. Người ngoài cho thế là tại ông sợ Lư thị có tính hay ghen.

Chính vua Đường Thái Tôn cũng muốn thử lòng Lư phu nhân. Một hôm cho hoàng hậu gọi vào bảo:
- Theo phép thường các quan to vẫn có tì thiếp. Quan nhà ta tuổi đã cao, vua muốn ban cho một mỹ nhân.
Lư thị nhất quyết không nghe. Vua nổi giận, mắng rằng:
- Nhà ngươi không ghen thì sống, mà ghen thì chết.
Rồi sai người đưa cho một chén rượu, giả làm chén thuốc độc, phán rằng:
- Đã vậy thì phải uống chén thuốc độc này.
Lư thị không ngần ngại chút nào, cầm chén, uống hết ngay. Vua thấy thế, bèn nói:
- Ta cũng phải sợ, huống nữa là Huyền Linh.

Trở lại với sự an bài của Thượng Đế. Ngài đã đặt cặp mắt chúng ta ở đằng trước, vì Ngài muốn chúng ta luôn hướng tới phía trước, chứ không phải để chúng ta cứ ngoái nhìn về những sự việc ở phía sau. Kinh nghiệm vốn cho chúng ta thấy: Người già thường sống bằng quá khứ, nên thích ngoái cổ nhìn lại phía sau. Thực vậy, trong khi ngồi nói chuyện với những người đã mang nặng tí tuổi đời, gã thấy các cụ ta luôn nhắc tới một thời oanh liệt, một dĩ vãng oai hùng và một ngày xưa hoàng thị của mình. Hồi ấy ông thế này, bà thế nọ, chứ đâu như bọn nhãi ranh bây giờ. Khi nhìn lại những sự việc ở phía sau như thế, người ta thường có hai thái độ: Thái dộ thứ nhất, đó là huênh hoang và tự đắc với những thành công mà mình đã thâu lượm được, để rồi ngủ quên trên chiến thắng của mình lúc nào cũng không hay. Thái độ thứ hai, đó là bực bội và cay cú với những thất bại mà mình đã gặp phải, để rồi khơi dậy mối hận thù tưởng chừng như đã bị xóa nhòa với thời gian. Dĩ nhiên, gã không phủ nhận vai trò của dĩ vãng, như người xưa đã nói:
- Vô cổ bất thành kim. Không có cũ thì làm sao có mới. Nhìn lại dĩ vãng, để rồi chắt lọc ra những bài học, những kinh nghiệm quí giá cho bản thân, là điều đáng trân trọng. Nhưng nhìn lại dĩ vãng, để rồi thỏa mãn với những chiến thắng, hay hậm hực với những thất bại, mà quên mất hiện tại, thì đó lại là điều bất ổn cần phải được xem xét lại.

Trong khi đó, người trẻ thường sống bằng tương lai, nên luôn hướng nhìn về phía trước, để rồi đưa ra những sáng kiến, góp phần xây dựng một ngày mai tươi sáng hơn.
Dĩ vãng thì đã qua đi. Có lấy làm vinh dự và hãnh diện hay đắng cay và chua xót, thì cũng không thể nào níu kéo lại được. Hiện tại mới thực sự cần thiết, bởi vì tương lai được bắt đầu từ trong hiện tại và ngày mai đang bắt đầu từ hôm nay.

TIẾP ĐẾN LÀ HAI LỖ TAI

Làm đẹp cho vành tai của mình không còn là phạm vị độc quyền của phe đờn bà con gái, mà cánh đờn ông con giai cũng nhảy vô ăn có. Qua phim ảnh và sách báo, cũng như khi đi ra ngoài đường, gã đã thấy nhiều anh con giai cũng xỏ lỗ tai, đeo vào đó một chiếc khoen. Người ta không phải chỉ xỏ một lỗ, mà đôi khi còn xỏ hai ba lỗ trên vành tai của mình, rồi quặc vào đó những thứ phụ tùng lỉnh kỉnh. Một đôi bông, một chiếc vòng, thậm chí có cả những cây thập giá được treo lủng lẳng, tòng teng và đong đưa.

Mục đích của đôi tai là để nghe. Thế nhưng, trong phạm vi này, gã ghi nhận được ít nữa là hai điều bất ổn.

Điều bất ổn thứ nhất, đó là chúng ta chỉ thích nghe những lời khen ngợi và ca tụng, hay những lời có lợi cho chúng ta, thậm chí cả những lời nịnh bợ và tâng bốc. Những lời nói kiểu này được coi như là… khoái lỗ nhĩ, nên dễ dàng được chấp nhận.
Các linh mục Âu Châu ngày xưa làm việc tại Việt Nam thường được gọi là các Cố Tây. Và một vị cố Tây, khi được nghe những lời ca tụng và nịnh bợ như vậy, đã phát biểu như sau:
- Mặc dù thầy biết nó “pĩnh” thầy, nhưng thầy vẫn…thích.
Điều bất ổn thứ hai, đó là chúng ta dễ nghe theo những người mà chúng ta có cảm tình. Lời của những người chúng ta thương mến xem ra dễ thủng lỗ nhĩ của chúng ta hơn bất cứ ai.

Thực vậy, khi muốn xin xỏ một vị quan ông giúp đỡ việc nọ việc kia, hay ban cho một ơn huệ nào đó. Nếu ngại gặp gỡ trực tiếp. Người ta bèn chạy vòng vòng và đi qua cửa hậu, bằng cách đưa phong bì hay biếu xén quà cáp cho quan bà và nhờ quan bà nói tiếp. Một lời của quan bà phán ra sẽ có giá trị gấp ngàn vạn lần lời của dân vai nặng chân trơn.

Cũng theo thể thức ấy, khi có việc phải nhờ cậy cha sở hay một đấng bậc nào đó, chúng ta thường nhờ một vị trung gian bàu cử, chẳng hạn như ông chánh, ông trùm. Những lời của ông chánh hay ông trùm thường được các ngài dễ dàng lắng nghe hơn những lời đường đột của chúng ta.

Thế nhưng, sự an bài của Thương Đế đối với đôi tai thì lại hoàn toàn khác hẳn. Ngài đặt hai tai chúng ta ở hai bên là để chúng ta nghe từ hai phía, cả lời khen lẫn tiếng chê, chứ không phải để chúng ta chỉ nghe từ một phía hoặc chỉ để nghe những lời tâng bốc êm tai.

Trước hết, Ngài không phải chỉ muốn chúng ta đón nhận những lời ngợi khen, mà còn phải lắng nghe cả những lời phê bình, chỉ trích, bởi vì như một câu danh ngôn đã bảo:
- Ai khen ta mà khen phải, thì đó là bạn ta. Còn ai chê ta mà chê phải, thì đó là thầy ta.

Vũ hầu nước Ngụy cùng với quần thần bàn việc nước. Việc gì vua nói cũng phải, quần thần không ai giỏi bằng. Lúc lui chầu, Ngụy hầu ra dáng hớn hở lắm. Ngô Khởi bèn tiến lên và nói:
- Cận thần ai đã đem chuyện Sở Trang vương nói cho nhà vua nghe chưa?
Vũ hầu hỏi:
- Chuyện Sở Trang vương là như thế nào?
Ngô Khởi thưa:
- Khi Sở Trang vương mà bàn việc, mà phải hơn quần thần, thi cho lui chầu. Có người hỏi: Sao vua lại lo? Sở Trang vương nói: Ta bàn việc mà quần thần không bằng được ta, cho nên ta lại lo. Cổ nhân có câu: Các vua chư hầu ai có thầy giỏi thì làm được vương, ai có bạn giỏi thì là được bá, ai có người quyết đoán cho mọi việc ngờ vực thì còn nước, ai bàn việc không còn ai bằng mình thì mất nước. Ta nghĩ ngu như ta mà quần thần cũng không ai bằng, thì nước ta có lẽ sẽ mất thôi. Bởi thế ta lo… Ấy cũng một việc giống nhau. Sở Trang vương thì lo mà nhà vua thì lại mừng.
Vũ hầu nghe vậy, thì áy náy vái tạ và nói:
- Trời sai nhà thầy đến bảo cái lỗi cho ta.

Riêng đối với những lời mời mọc, khả dĩ làm hoen ố cõi lòng và làm vẩn đục tâm can tì phế, chúng ta cần phải can đảm gạt bỏ và dứt khoát nói không.

Đời thượng cổ có ông Hứa Do, là một nhà ẩn dật ở trong chằm Bái trạch. Vua Nghiêu nghe tiếng là người giỏi, mời ra, xin nhường cả thiên hạ. Hứa Do từ chối, lui về ẩn tại núi Trung Nhạc, phía nam sông Dĩnh Thủy.

Sau vua Nghiêu lại tìm đến, cố mời Hứa Do ra làm Tổng trưởng cả chín châu. Hứa Do thấy vậy, không muốn nghe nữa, bèn ra bờ sông Dĩnh Thủy rửa tai. Ngay lúc bấy giờ, Sào Phủ dắt trâu xuống bờ sông gặp Hứa Do và hỏi:
- Vì việc gì mà bác phải rửa tai như vậy?
Hứa Do thuật chuyện. Sào Phủ bèn gò cổ trâu lại mà nói rằng:
- Ta toan cho trâu uống nước nơi đây, nhưng lại e bẩn cả miệng trâu.
Nói đoạn, dắt trâu lên quãng sông trên mà cho uống nước.

Ngoài ra, trong những cuộc xích mích hay bất đồng, chúng ta cần phải có thái độ khách quan, nghĩa là lắng nghe cả hai phe, phe ta cũng như phe địch, để có thể nắm vững sự thật, rồi đi tới một sự hòa giải tốt đẹp. Gã quen một anh bạn chẳng may bị điếc lỗ tai bên trái, thành thử mỗi khi muốn nói với anh ta điều gì, thì phải kề miệng vào lỗ tai bên phải của anh ta mà nói, chứ còn nói vào lỗ tai bên trái, thì anh ta sẽ chẳng hiểu gì cả. Cũng vậy, mỗi khi muốn nghe điều gì cho thấu đáo, anh ta phải chìa cái lỗ tai bên phải về phía người nói, giống như cái đài ra đa hướng tới nơi phát tín hiệu… Trong cách cư xử thường ngày, chúng ta luôn bị tình cảm chi phối, làm cho những phán đoán trở nên lệch lạc, bởi vì chúng ta dễ dàng nghe theo phe ta, là những người họ hàng hay bè bạn thân cận, những người mà chúng ta yêu mến.

Đứa bé nghịch ngợm trong giờ giáo lý, bị ông thầy giúp xứ đét cho vài roi. Đứa bé vừa mếu vừa khóc, chạy thẳng về nhà méc với ông bố. Chẳng cần phải suy nghĩ hỏi han, ông bố liền nổi giận đùng đùng, chạy khắp xóm và chửi đổng ông thầy một chặp:
- Nó không đẻ, nó không đau, nó dám đánh con nhà người ta như thế à.

SAU CÙNG LÀ CÁI MIỆNG

Nơi cái miệng, bên ngoài là vành môi, bên trong là cái lưỡi. Vành môi cũng là điểm được các bà các cô chăm sóc một cách kỹ lưỡng. Người ta có thể giải phẫu cho vành môi nhỏ lại. Người ta cũng có thể xâm cho vành môi to ra. Hơn thế nữa, người ta còn chế tạo biết bao nhiêu thứ son, đủ màu đủ sắc để trang điểm cho vành môi. Có màu đỏ chói như tiết canh gà. Có màu xám ngắt như thịt trâu ươn… Ai thích chọn màu nào, thì xin tùy hỉ.

Cái miệng có nhiều công dụng khác nhau. Đối với những người đang ở trong quĩ đạo của tình yêu, thì cái miệng được dùng để hôn. Đối với những người đang bị kiến bò bụng, thì cái miệng được dùng để ăn. Và đối với bàn dân thiên hạ, ở mọi nơi và trong mọi lúc, cái miệng được dùng để nói.

Kinh nghiệm cho thấy: lời nói, mặc dù là phương tiện chính Chúa đã trao ban để chúng ta chuyển thông tư tưởng và ý muốn cho người khác, hầu tạo được một bầu khí hòa thuận và bắc được một nhịp cầu cảm thông, thế nhưng sai lỗi do lời nói lại là một thứ sai lỗi chúng ta thường vấp phạm hơn cả. Vì với lời nói, chúng ta có thể sai lỗi bất kỳ ở đâu, bất kỳ lúc nào, bất kỳ với ai và bất kỳ qua đề tài nào. Tuy nhiên có hai thứ sai lỗi mà chúng ta thường vấp phạm hơn cả.

Sai lỗi thứ nhất, đó là nói dài, nói dẻo, nói dai. Thực vậy, trong những câu chuyện hằng ngày, gã thấy có những người luôn dành cho mình cái quyền được nói. Họ nói từ đầu đến cuối, không để cho ai chen vào. Họ nói không kịp thở và chỉ nói về mình bằng cách đề cao về những việc mình đã làm, những gì mình đã có, khiến người nghe nhiều lúc vừa khiếp lại vừa sợ. Nhất là đối với các chị vợ. Họ thường ca cẩm về tình trạng vật giá leo thang và những khó khăn trong việc giải quyết vấn đề cơm áo gạo tiền. Họ thường chì chiết anh chồng, nếu chẳng may mắc phải một sai lỗi nào đó. Tất cả là như những điệp khúc buồn được ca đi ca lại suốt ngày, ban sáng cũng như ban chiều, ban tối cũng như ban đêm.

Những người nói dài, nói dẻo, nói dai hình như đã quên mất lời người xưa căn dặn:
- Đa ngôn thì đa quá.
- Rượu lạt uống lắm cũng say,
Người khôn nói lắm, dẫu hay cũng nhàm.


Sai lỗi thứ hai, đó là nói gian và nói dối, có nghĩa là nói hành nói xấu người khác. Nhiều lúc gặp nhau, chúng ta đã phát ngôn thật bừa bãi, chúng ta xả láng chỉ trích người khác, mà chẳng biết thực hư như thế nào. Chúng ta nói cho khoái cái lỗ miệng. Ai mất danh dự, ai bị vùi xuống bùn đen cũng mặc. Chính vì thế, Thánh Kinh đã bảo :
- Số người chết vì cái lưỡi lại nhiều hơn số người ngã gục vì gươm giáo nơi chiến trường.
Và tục ngữ dân Ăng Lê cũng nói :
- Không nọc nào độc cho bằng cái lưỡi.

Trong khi đó, ý muốn của Thượng Đế không phải là như vậy: Ngài tạo cho chúng ta chỉ một cái miệng vì Ngài muốn chúng ta nói ít nghe nhiều và chỉ nói những điều khôn ngoan, chứ không phải để chúng ta nói nhiều và nói những lời sâu hiểm là tổn thương người khác.

Chắc hẳn có lần chúng ta đã cảm thấy bực bội và tức tối trước những luồng dư luận xuyên tạc, trước những miệng lưỡi thâm độc của người đời. Vì dư luận vốn thường luận dư. Lời đồn thổi bao giờ cũng phóng đại, tô màu, không biết đâu mà lường, bởi vì:
- Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo.

Một lời nói vô ý thức có thể ví như lon dầu đổ thêm vào lửa, làm bừng lên sự tức giận, thù oán, thiêu rụi hết tình nghĩa ruột thịt cũng như lối xóm. Một lời nói vu oan có thể làm cho người khác mất hết tiền bạc, địa vị, thân bại danh liệt và đi vào chốn lao tù. Bởi đó, người xưa đã dạy :
- Hãy ngoáy lưỡi bảy lần trước khi nói.

Esope là một tên nô lệ da đen, nhưng rất được chủ là ông Santô yêu mến và kính trọng. Ngày kia có khách đến chơi, ông chủ sai Esope ra chợ mua thức ăn, nhưng không bảo phải mua những gì. Esope mua toàn các thứ lưỡi : nào lưỡi heo, nào lưỡi bò, nào lưỡi ngựa… đem về nấu nướng. Lạ miệng nên ăn ngon, ông chủ và khách khứa đều hài lòng về tài nấu nướng của Esope.
Lần sau có khách, ông chủ cũng sai Esope đi chợ và cũng không dặn phải mua những gì. Esope lại mua về toàn những lưỡi, chỉ khác ở chỗ là cách nấu nướng và thêm bớt gia vị.
Thấy vậy, ông chủ ngạc nhiên thì Esope bèn kính cẩn làm một màn lý luận về cái lưỡi. Ông nói :
- Ở đời, tốt hay xấu, lợi hay hại đều do việc sử dụng cái lưỡi một cách khéo léo hay vụng về.
Chính nhờ vậy, Esope được chủ quí yêu và giải thoát khỏi kiếp sống nô lệ.

Để kết luận, gã xin ghi lại một tư tưởng như sau:
- Lưỡi người khôn ngoan tạo thành danh giá, mồm kẻ ngu dại gây nên đổ vỡ tan hoang.

(Gã Siêu từ Dũng Lạc)

Sunday, October 24, 2010

Vì sao người Việt làm toán “chạy” gần hết sang Mỹ?

Trong khi đội ngũ làm toán của nước ta đang thiếu những người giỏi thì hơn một nửa những người làm toán giỏi đang ở nước ngoài, phần lớn là ở Mỹ. Những chia sẻ dưới đây của các nhà khoa học và cựu du học sinh ở Mỹ sẽ làm sáng tỏ phần nào nguyên nhân.

Những “tên tuổi” về toán học tập trung ở Mỹ

Nước Mỹ vốn nổi tiếng là "vùng trũng" thu hút nhân tài. Ngành khoa học cơ bản như Toán học hiển nhiên được chú trọng.

GS Ngô Bảo Châu, mặc dù đã có thời gian học và làm việc 15 năm ở Pháp, vẫn chọn Mỹ là nơi dừng chân.

Những người Việt ở nước ngoài làm toán chuyên nghiệp ước tính trên 100 người, trong đó phần lớn tập trung ở Mỹ.

Những người Việt làm toán có tiếng ở Mỹ có thể kể đến: GS Vũ Hà Văn (ĐH Rutgers), GS Dương Hồng Phong (ĐH Columbia), GS Đào Hải Long (ĐH Kansas), Lê Hải An (ĐH Utah), GS Lê Tự Quốc Thắng (Viện công nghệ Georgia, Atlanta), GS Phạm Hữu Tiệp (ĐH Florida), Ngô Thanh Nhàn (ĐH New York)...

Ông Lê Tuấn Hoa, Chủ tịch Hội Toán học Việt Nam cho biết trong số khoảng gần 30 người Việt đang làm việc về ngành toán ở nước ngoài có trao đổi thường xuyên và thỉnh thoảng về nước làm việc thì có khoảng một nửa đang làm việc tại Mỹ.

"Những người làm toán trẻ và giỏi, độ tuổi trên dưới 35 phải đến hơn một nửa đang làm việc ở nước ngoài, trong đó chủ yếu ở Mỹ", ông cho biết thêm.

Nước đứng đầu về số lượng giải Fields, giải thưởng cao quý nhất về toán học cũng chính là Mỹ (13 giải), tiếp đến là Pháp (11 giải), Nga (9 giải), Anh (6 giải).

Tại ĐH Toán học thế giới vừa qua tại Ấn Độ, có 19 báo cáo mời toàn thể thì Mỹ chiếm tới 11 báo cáo. Không thể không nhắc tới, GS Ngô Bảo Châu khi thêm vào một huy chương Fields cho bảng thành tích giải Fields của nước này.

Vì sao nước Mỹ là đích đến cho các nhà toán học?

Một GS toán người Việt đang làm việc tại Mỹ nhận định: "Một đất nước muốn phát triển kinh tế thì trước hết phải có nền khoa học tiên tiến - đây chính là tư tưởng mà Mỹ đã áp dụng từ rất lâu.

Làm khoa học, ai cũng muốn ở trong một môi trường có nhiều người quan tâm tới thứ mình làm, có nhiều người để thảo luận và cộng tác. Mỹ chính là một môi trường như vậy, có rất nhiều nhà khoa học trong mỗi chuyên ngành hẹp. Đây là kết quả của một quá trình đầu tư lâu dài".

GS. Ngô Bảo Châu trong một bài phỏng vấn cũng nói lý do chuyển đến ĐH Chicago là vì cần những đồng nghiệp có thể hiểu những gì anh đang làm.

GS Hà Huy Tài, ĐH Tulane (Mỹ) cho biết thêm: "Không phải các nhà khoa học không muốn sang châu Âu, mà sang châu Âu khó hơn qua Mỹ, mà công việc thì chưa chắc đã tốt bằng. Mỹ có rất nhiều trường đại học và các viện nghiên cứu. Hơn nữa, khi xét hồ sơ xin việc trong khoa học, người ta sẽ không quan tâm anh là người Mỹ hay người nước ngoài (trừ một số nơi đặc biệt), thành ra, cơ hội là cao hơn. Ở châu Âu, số lượng các trường đại học ít hơn nhiều, và thường vẫn có sự ưu tiên cho người bản xứ".

Thêm vào đó “Ở Mỹ, lương trả cao hơn ở các nước khác, hơn nữa lương trả theo khả năng. Hai giáo sư cùng một chuyên ngành, vào trường cùng thời gian nhưng lương có thể khác hẳn nhau. Nếu bạn thật sự giỏi, người ta sẵn sàng trả lương rất cao để mời bạn về. Ở nhiều nước châu Âu (trong đó có Việt Nam), nếu hai người có cùng học hàm, học vị, cùng thâm niên công tác và làm việc cùng cơ quan thì lương phần nhiều là tương đương nhau”, GS Hà Huy Tài nói.

Một du học sinh tại Mỹ, đã từng làm việc tại Mỹ và Việt Nam, Nguyễn Nguyệt, lý giải vì sao Mỹ thu hút được nhân tài khắp thế giới:

"Từ thế chiến thứ II đến nay, Mỹ luôn ra sức giành giật nguồn chất xám từ các nước. Nước Mỹ chiếm tới 2/3 số giải Nobel của thế giới, trong đó, có sự đóng góp của rất nhiều nhà khoa học nhập cư. Và chính nguồn chất xám thu hút được này đã giúp Mỹ tích lũy được một nguồn của cải khổng lồ với GDP lên tới gần 15.000 tỉ USD trong năm ngoái là năm đang chìm trong suy thoái.

Có thể nói, họ gặt hái được nhiều thành công và xây dựng được một nền kinh tế vượt bậc là do họ biết định giá nhân tài, và mua chất xám. Lí do Mỹ thu hút được nguồn nhân tài lớn do thu nhập cao, môi trường năng động, cơ sở vật chất đầy đủ, đãi ngộ rất tốt đối với những cá nhân xuất sắc.

Cơ chế thị trường của Mỹ đã được xây dựng và củng cố từ hàng trăm năm nay. Môi trường pháp lý cũng rất phát triển. Do đó, môi trường làm việc vô cùng chuyên nghiệp, với sự liên kết chặt chẽ, đề cao sự sang tạo và cái mới, đặc biệt là những người trẻ tuổi. Sự liên lạc – trao đổi thông tin được đề cao, cạnh tranh khốc liệt nhưng công bằng.

Trong văn hóa Mỹ, giá trị của một con người nằm ở việc anh ta làm được gì và anh ta làm việc bao lâu nên cuộc sống xoay quanh công việc, vô cùng căng thẳng".

Thu hút người tài trở về từ Mỹ

Chỉ thu hút được người làm toán giỏi ở Mỹ về Việt Nam cũng là một thành công lớn. Nếu như môi trường làm việc ở Mỹ được coi là lý tưởng thì môi trường sống không hẳn như vậy. Người Việt dù xa quê nhiều năm vẫn thèm một không khí ấm áp, chân tình như ở quê nhà. Đó là chưa kể, cái kết nối khiến họ không thể đi mãi không về là gia đình, họ hàng, bạn bè thân thuộc đang còn ở Việt Nam.

GS Hà Huy Tài chia sẻ tâm sự rất thật: "Cuộc sống ở Mỹ rất tốt cho công việc, nhưng lại khá buồn tẻ và luôn phải chịu áp lực lớn vì tính cạnh tranh cao. Ngoài công việc ra thì tôi không thích cuộc sống bên Mỹ là mấy."

Tất nhiên, ai cũng hiểu, nhà khoa học Việt, bên cạnh môi trường làm việc tốt còn là sự mưu sinh mà phải tha hương. Nếu như đồng lương trong nước đảm bảo cuộc sống để yên tâm nghiên cứu thì chắc chắn, đã có rất nhiều nhà khoa học trở về. Nếu như chỉ cần cải thiện được thu nhập thì Việt Nam sẽ trở thành "vùng trũng tự nhiên" thu hút người con đất Việt.

Theo thống kê sơ bộ, hiện có gần 100 người Việt làm toán (hiểu theo nghĩa có công việc tương đối ổn định, và có làm việc nghiên cứu về toán, kể cả lý thuyết lẫn ứng dụng) đang định cư ở nước ngoài. So với tổng số các nhà toán học trên thế giới thì con số này chỉ là "muối bỏ biển", nhưng so với VN thì đây là con số đáng kể, và sẽ là một động lực quan trọng cho việc phát triển toán học của VN.

Tú Uyên
Theo Vietnamnet

Friday, October 1, 2010

LUÔN LÀM MỘT HỌC TRÒ

Khi Hasan, một nhà hiền triết Hồi giáo sắp qua đời, có người hỏi ông:

- Thưa Hasan, ai là thầy của ngài ?.

Hasan đáp:

- Những người thầy của ta nhiều vô kể . Nếu điểm lại tên tuổi của các vị ấy hẳn sẽ mất hàng tháng, hàng năm, và như thế lại quá trễ vì thời gian của ta còn rất ít. Nhưng ta có thể kể về ba người thầy sau của ta.

Người đầu tiên là một tên trộm.

Có một lần ta đi lạc trong sa mạc, khi ta tìm đến được một khu làng thì trời đã rất khuya, mọi nhà đều đi ngủ cả. Nhưng cuối cùng ta cũng tìm thấy một người, ông ta đang khoét vách một căn nhà trong làng. Ta hỏi ông ta xem có thể tá túc ở đâu, ông ta trả lời: "Khuya khoắt thế này thật khó tìm chỗ nghỉ chân, ông có thể đến ở chỗ tôi nếu ông không ngại ở chung với một tên trộm.”

Người đàn ông ấy thật tuyệt vời. Ta đã nán lại đấy hẳn một tháng! Cứ mỗi đêm ông ta lại bảo: "Tôi đi làm đây. Ông ở nhà và cầu nguyện cho tôi nhé!" Mỗi khi ông ta trở về ta đều hỏi: "Có trộm được gì không?" và ông ta đều đáp: "Hôm nay thì chưa, nhưng ngày mai tôi sẽ cố, có thể lắm chứ".

Ta chưa bao giờ thấy ông ta trong tình trạng tuyệt vọng, ông ta luôn hạnh phúc. Có lần ta đã suy ngẫm và suy ngẫm trong nhiều năm ròng để rồi không ngộ ra được một chân lý nào. Ta đã rơi vào tình trạng tuyệt vọng, tuyệt vọng đến nỗi ta nghĩ mình phải chấm dứt tất cả những điều vô nghĩa này. Ngay sau đấy ta chợt nhớ đến tên trộm, kẻ hằng đêm vẫn quả quyết: "Ngày mai tôi sẽ làm được, có thể lắm chứ!"

Người thầy thứ hai là một con chó.

Khi ta ra bờ sông uống nước, có một con chó xuất hiện. Nó cũng khát nước. Nhưng khi nhìn xuống dòng sông, nó thấy cái bóng của mình nhưng lại tưởng đó là một con chó khác. Hoảng sợ, nó tru lên và bỏ chạy. Nhưng rồi khát quá nó bèn quay trở lại. Cuối cùng, mặc nỗi sợ hãi trong lòng, nó nhảy xuống sông và cái bóng biến mất. Ta hiểu đây là một thông điệp đã được gửi đến cho ta: con người phải biết chiến thắng nỗi sợ trong lòng bằng hành động.

Người thầy cuối cùng là một đứa bé.

Ta đến một thành phố nọ và thấy một đứa bé trên tay cầm một cây nến đã thắp sáng để đặt trong đền thờ. Ta hỏi đứa bé: "Con tự thắp cây nến này phải không?" Đứa bé đáp: "Thưa phải.” Đoạn ta hỏi: "Lúc nãy nến chưa thắp sáng, nhưng chỉ một thoáng sau đã cháy sáng. Vậy con có biết ánh sáng từ đâu đến không?”. Đứa bé cười to, thổi phụt ngọn nến và nói: "Ngài thấy ánh sáng đã biến mất, vậy ngài bảo ánh sáng đã đi đâu?”

Cái “tôi” ngạo nghễ của ta hoàn toàn sụp đổ, pho kiến thức kim cổ của ta cũng sụp đổ theo. Lúc ấy ta nghiệm ra sự dốt nát của bản thân. Và từ đó ta vất đi tất cả những tự hào về kiến thức của mình.

Đúng là có thể nói ta không có một ai là thầy, nhưng điều này không có nghĩa ta không phải là một học trò. Ta xem vạn vật là thầy. Tinh thần học hỏi của ta luôn rộng mở hơn tất cả các người. Ta học hỏi từ tất cả mọi vật, từ cành cây ngọn cỏ đến đám mây trên trời kia. Ta không có một người thầy vì ta có hàng triệu triệu người thầy mà ta đã học được mỗi khi có thể.

Điều thiết yếu trong cuộc sống là luôn làm một học trò. Điều này có nghĩa là gì? Nghĩa là có khả năng học hỏi, luôn sẵn sàng học để biết chấp nhận ý nghĩa của vạn vật.