Friday, August 31, 2007

HAI SẮC HOA TI GÔN

T.T.Kh.

Một mùa thu trước mỗi hoàng hôn
Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn
Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc
Tôi chờ người ấy với yêu thương

Người ấy thường hay ngắm lạnh lùng
Dải đường xa vút bóng chiều phong,
Và phương trời thẳm mờ sương cát,
Tay vít dây hoa trắng lạnh lòng.

Người ấy thường hay vuốt tóc tôi,
Thở dài những lúc thấy tôi vui.
Bảo rằng "Hoa dáng như tim vỡ,
Anh sợ tình ta cũng thế thôi."

Thuở đó nào tôi có hiểu gì,
Cánh hoa tan tác của sinh ly,
Cho nên cười đáp: "Mầu hoa trắng
Là chút lòng trong chẳng biết suy."

Đâu biết lần đi một lỡ làng
Dưới trời đau khổ chết yêu đương.
Người xa xăm quá, tôi buồn lắm
Trong một ngày vui, pháo nhuộm đường.

Từ đấy thu rồi thu lại thu,
Lòng tôi còn giá đến bao giờ.
Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ
"Người ấy" cho nên vẫn hững hờ.

Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời,
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi,
Mà từng thu chết, từng thu chết,
Vẫn giấu trong tim bóng một người.

Buồn quá hôm nay xem tiểu thuyết
Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa
Nhung hồng tựa trái tim tan vỡ
Và đỏ như màu máu thắm phai

Tôi nhớ lời người đã bảo tôi,
Một mùa thu cũ rất xa xôi.
Đến nay tôi hiểu thì tôi đã
Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi!

Tôi sợ chiều thu phớt nắng mờ,
Chiều thu hoa đỏ rụng, chiều thu...
Gió về lạnh lẽo chân mây vắng,
Người ấy ngang sông đứng ngóng đò.

Nếu biết rằng tôi đã có chồng,
Trời ơi, người ấy có buồn không?
Có thầm nghĩ tới loài hoa vỡ,
Tựa trái tim phai, tựa máu hồng

********************************

Huyền thoại thi ca tiền chiến Việt Nam những năm 1937-38 bỗng nổi cơn ba đào với bốn bài thơ ký tên T.T.Kh rồi sau đó lặng lẽ tan vào cõi hư không mặc cho dư luận ồn ào xôn xao. Chất hưng phấn làm hoa ti gôn nở rộ một thời được khai hoa nở nhụy bằng một câu chuyện "Hoa ti gôn" của ký giả Thanh Châu đăng trên báo "Tiểu Thuyết Thứ Bảy" xuất bản tại Hà Nội. Là một truyện ngắn không có gì đặc sắc nhưng nhẹ nhàng và bay bổng, "Hoa ti gôn" kể về một chuyện tình buồn giữa một chàng họa sĩ và một thiếu nữ gia đình thượng lưu.

Sau đó không lâu, tòa soạn nhận được một bài thơ "Hai sắc hoa ti gôn", ký tên T.T.Kh do một người thiếu phụ trạc hai mươi, dáng bé nhỏ thùy mị, nét mặt u buồn mang đến. Đó là lần đầu và cũng là lần cuối người thiếu phụ nầy xuất hiện. Câu chuyện "Hoa ti gôn" đã khơi lại mối tình xưa của người thiếu phụ (T.T.Kh.) với một chàng nghệ sĩ, cả hai đã qua một thời yêu thương hẹn hò dưới giàn hoa ti gôn. Rồi chàng ra đi biền biệt không hẹn ngày về. Nàng ở lại vâng lời mẹ cha gạt nước mắt nên duyên cùng người khác - một người chồng luống tuổi - để rồi tan nát tâm tư mỗi khi nhớ lại những kỷ niệm êm đềm của thời quá khứ. Bài thơ Hai sắc hoa ti gôn đã gây nên xúc động lớn trong lòng người yêu thơ bởi những câu thơ quá da diết. Sau bài thơ nầy, toà soạn Tiểu Thuyết Thứ Bẩy lại nhận được bằng đường bưu điện ba tác phẩm khác cũng mang tên T.T.Kh. Đó là các bài "Bài thơ thứ nhất", "Bài thơ đan áo" (riêng đăng ở Phụ nữ thời đàm) và "Bài thơ cuối cùng".

Từ đó về sau, người ta không còn gặp thơ của T.T.Kh nữa. Không ai hiểu tại sao bài "Hai sắc hoa ti gôn" lại xuất hiện trước "Bài thơ thứ nhất" và cũng không hiểu tại sao tác giả lại lặng lẽ rời bỏ văn đàn không lời từ biệt để lại trong lòng người yêu thơ bao nỗi niềm thương nhớ luyến tiếc.

********************************

Bảy mươi năm trôi qua, nhân gian tốn bao giấy mực để tìm hiểu T.T.Kh là ai. Người thì đoán Trần Thị Khánh, một nữ sinh Hà nội, người yêu của Thâm Tâm, một nhà thơ Việt Nam nổi tiếng với bài Tống Biệt Hành. Kẻ lại bảo là Nguyễn Bính, rồi em gái họ nhà thơ Tế Hanh. Người khác đoan chắc đó là Trần Thị Vân Chung, người yêu nhà văn Thanh Châu, tác giả truyện ngắn Hoa ti gôn. Ai đúng ai sai, làm sao biết được khi tác giả tiếp tục thinh lặng "sống hờ hết kiếp, trong duyên trái đời".

Làm sao có thể dệt nên chuyện tình buồn nếu chỉ có một người? Thế là dư luận đổ xô đi tìm "người ấy" của T.T.Kh để hỏi xem "người ấy có buồn không? Có còn nghĩ tới loài hoa vỡ". Kẻ xầm xì nói đó là nhà thơ Thâm Tâm, người lại bảo là nhà văn Thanh Châu. Nguyễn Bính, J. Leiba và bao nhiêu anh hùng thiên hạ khác nữa cũng nhận T.T.Kh. là người yêu của mình! Ai đúng ai sai, làm sao biết được khi loài hoa ti gôn chỉ nở một lần, hoa rụng mang theo niềm bí mật của người yêu hoa.

Làm sao có thể dệt nên chuyện tình ngang trái nếu không có người thứ ba, là kẻ có nợ nhưng không duyên, có nghĩa nhưng không tình? Thế mà thiên hạ chẳng ai buồn tìm hiểu người chồng "nghiêm luống tuổi" là ai? Báo chí chẳng tốn một giọt mực, không một lời phân ưu. Chẳng ai buồn thắc mắc đến danh tính của kẻ chiến thắng nhưng lại là chiến bại, kẻ "được" nhưng là "mất". Cũng như vợ mình, chân dung của ông vẫn là một ẩn số phụ bé nhỏ không lối đáp trong nghi án văn học T.T.Kh.

Bài thơ tình lãng mạn thời tiền chiến này đã đi sâu vào lòng tôi một thời. Ngắm hoa ti gôn "sắc hồng tựa trái tim tan vỡ, và đỏ như màu máu thắm pha", tôi ngậm ngùi xót thương người con gái bạc phận ôm mối tình dang dở lên xe hoa, theo lời mẹ cha nhắm mắt đưa chân sống "quang cảnh lạ, tháng năm dài. Đêm đêm nằm tưởng ngày mai giật mình." Tôi cảm thông tâm tình cay đắng người thiếu phụ buồn ngồi bên song cửa sổ miễn cưỡng "đan đi đan lại áo len cho chồng" mà mắt cứ dõi nhìn phương xa. Tôi thầm trách "người ấy" đã làm tan nát thêm cõi lòng người yêu khi mang "bài thơ đan áo nay rao bán, cho khắp người đời thóc mách xem". Xót xa, tiếc nuối.... là những tình cảm lưu luyến dành cho hai nhân vật trai thanh gái tú có duyên gặp gỡ nhưng không phận phu thê đã dệt nên những áng thơ tình bất hủ cho nền văn chương Việt Nam!

Cũng như người đời, tôi chưa một lần thắc mắc tâm tư người chồng đi bên lề cuộc đời vợ mình ra sao. Ông buồn hay vui khi đêm đêm nằm ôm cái xác không hồn với cặp mắt ngơ ngác thất thần? Ông nghĩ gì khi môi đụng làn môi băng giá? Ông cảm thấy gì khi được vợ nhưng không được trái tim của nàng? Cho đến một ngày tình cờ đọc Kinh Thánh, tôi ngờ ngợ như đọc được nỗi niềm cay đắng của ông, một người đứng bên lề cuộc đời người yêu qua những dòng chữ chua chát "Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta" (Mc 7:6b). Ôi, Thiên Chúa của tôi, Đấng tạo dựng nên muôn loài muôn vật, giàu sang và uy quyền, lại chia sẻ chung số phận hẩm hiu với người chồng già bạc phận trong "Hai sắc hoa ti gôn" hay sao? Tôi đã sống ra sao để Ngài phải thốt lên những lời ai oán ấy?

Từ "ngày vui pháo nhuộm đường" đó, cuộc sống tuy nhiều sầu muộn, tháng ngày đong đầy những chua cay nhưng T.T.Kh. không hề có ý định chạy trốn cuộc sống, cũng chẳng dự định trốn theo người yêu. Nàng" vẫn đi bên cạnh cuộc đời" trong sự "ái ân lạt lẽo" của chồng với một thái độ lạnh lùng dửng dưng chấp nhận sự thật dù phũ phàng. Tôi cũng thế, vẫn đi bên Thiên Chúa, vẫn thờ phượng Ngài, không có ý định bỏ đạo, càng không muốn chống đối Ngài. Chỉ là một thái độ lạnh nhạt chấp nhận sự việc có Chúa bên đời như một tình cờ, như một sự ép đặt của mẹ cha. Còn lòng tôi ư? Người thiếu phụ có chồng "vẫn giấu trong tim bóng một người", chỉ một người thôi! Còn tôi, thờ phượng Ngài đó nhưng che giấu trong tim biết bao bóng hình, những mộng mơ với thế gian phù phiếm, những toan tính cho tương lai dù tương lai không thuộc về tôi và bao dự định dang dở.... Những bóng hình đó không ngừng đeo đuổi tôi đến nhà thờ những ngày Chúa nhật dù chỉ một tiếng, vẫn hiện diện trong những lời kinh ro ro thuộc lòng dù chỉ vài phút. Như một thiếu phụ đoan trang khép mình trong lễ giáo, tôi tuân giữ những luật buộc một cách máy móc, dâng Ngài những của lễ dư thừa trong nhăn nhó. Nhưng linh hồn tôi, trái tim tôi, tâm trí tôi... dật dờ đâu rồi trong một cõi xa xăm nào đó!

Đi bên chồng nhưng lại hỏi "người ấy" có buồn không, đó là tâm trạng của người xưa. Còn tôi hôm nay đi bên Ngài đó nhưng vất vả lo toan cho những việc ở trần gian. Miệng nói tôn kính Thiên Chúa hết lòng hết sức trên hết mọi sự. Nhưng bao sức lực, trí lực, tài năng, máu huyết của tuổi thanh xuân.... tôi đã dâng hiến cho thế gian hết rồi để mong tìm một chỗ đứng trong xã hội, một cuộc sống tiện nghi..... Còn chăng chỉ là cái xác mệt mỏi vô hồn trong lòng nhà thờ mỗi ngày Chúa nhật buồn. Xa thật hai cõi lòng của tôi và Ngài! Phải chăng những lời trách móc "Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta" (Mc 7:6b) là để chỉ tôi sao?

"Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời..., vẫn giấu trong tim...", "Vẫn đi""vẫn giấu", một sự ngoan cố đến lạ lùng của một phụ nữ yếu đuối. Không có ý định từ chối cuộc sống và gia đình nhưng cũng không có ý định chôn hình ảnh xưa cố quên để sống, nàng đã cố bám víu lấy nó như một thứ lương thực nuôi sống hiện tại. Tôi thấy thấp thoáng hình ảnh mình trong sự cố chấp bám dính quá khứ của người thiếu phụ. Vẫn biết một ngày nào đó tôi sẽ phải rũ áo ra đi không mang theo được gì nhưng tôi vẫn ngoan cố xây đắp cho thật nhiều. Vẫn biết đời sau mới là thiên thu vĩnh cửu nhưng tôi chỉ chăm lo hạnh phúc hời hợt của vài thu chóng qua. Phải chăng đó là oan trái của kiếp người? Phải chăng con rắn ngày xưa vẫn tiếp tục cám dỗ trong lòng mỗi người mãi không thôi? Người thiếu phụ đã bám lấy cả hai và nàng đã phản bội cả hai: người yêu và chồng mà cuộc sống chỉ là "từng thu chết, từng thu chết". Kết quả cuộc sống của tôi có khá hơn không khi tôi cùng bám vào cả hai: Thiên Chúa và thế gian?

Còn gì xót xa não nùng cho bằng khi nghe những lời thở than của người vợ hiền "Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời. Ái ân lạt lẽo của chồng tôi." Phải chăng đó cũng là những tiếng trách móc của tôi về sự "ái ân lạt lẽo" của Thiên Chúa? Như một ông chồng già giàu có nhưng keo kiệt, uy quyền nhưng bủn xỉn, Ngài quay mặt làm ngơ trước những lời van xin thống thiết của tôi: cái xin không được, cái không xin lại cho, cái muốn được thì mất, cái mất lại được. Ngài đã bỏ tôi chới với một mình trong khổ đau, mặc tôi ngụp lặn trong cô quạnh không lời ủi an. Trong nỗi đau không tình cờ đó, Ngài tiếp tục thinh lặng, bí mật và khó hiểu..... không một lời đáp trả. Quả là lạt lẽo và vô tình làm sao!

Dù lời thơ ai oán, hồn thơ chất chứa niềm trách móc cam chịu của người vợ bị chồng "lạt lẽo, hờ hững", nhưng tôi vẫn bắt gặp đâu đó một sự quảng đại nơi người chồng "nghiêm luống tuổi" môn đăng hộ đối. "Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ, "Người ấy" cho nên vẫn hững hờ." Chỉ là hững hờ thôi sao? "Vẫn biết", một sự khẳng định chắc chắn đến thế nhưng không có cảnh đòi li dị, không đuổi về nhà người vợ ngày qua đêm lại chỉ"thờ thẫn hồn eo hẹp" nhớ người xưa, không cưới năm thê bảy thiếp, không đánh đập hành hạ, mà cũng chẳng có chuyện "ông ăn chả bà ăn nem", ... không một hành động cụ thể nào cho sự trả thù. Chỉ là một thái độ "hững hờ" của người quân tử! Thái độ "hững hờ" hay nồng nàn, "lạt lẽo" hay sốt mến còn do thái độ cảm nhận của đối tượng nữa. Tôi không thể nhìn thấy cuộc đời màu hồng khi đeo cặp kiếng đen. Làm sao có thể tìm thấy một sự yêu đương nồng cháy khi "từ đấy thu rồi, thu lại thu. Lòng tôi còn giá đến bao giờ?" Ai có thể làm tan tảng băng nếu lối vô bị bít kín? Ly nước đã đầy làm sao có thể rót thêm? Làm sao có thể tìm được lòng sốt sắng yêu mến khi tôi đến với Thiên Chúa với tấm lòng giá băng qua những nghi thức thờ phượng hời hợt bên ngoài, với trái tim đầy ắp những tham vọng thế gian và cái đầu tính toán đầy những thành kiến.

Có đúng chăng sự "hững hờ""lạt lẽo" của người chồng trong "Hai sắc hoa ti gôn" là kết quả cách sống thờ ơ của người vợ? Có sai không thái độ giận dữ của Thiên Chúa "Phải chi ngươi lạnh hẳn hay nóng hẳn đi! Nhưng vì ngươi hâm hẩm chẳng nóng chẳng lạnh, nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta" (Kh 3:15-16) là kết quả cách sống dở dở ương ương của tôi? Tôi còn có sự tự do lựa chọn cho mình một lối sống, nhưng người con gái đất Việt bảy mươi năm về trước thì không. Vậy tôi và nàng ai đáng thương và đáng trách hơn?

Xuyên suốt bốn bài thơ của T.T.Kh, ngoài thái độ "hững hờ" "lạt lẽo" của người chồng, còn một thái độ tế nhị khác nữa, đó là sự chờ đợi! Ông đã âm thầm đi bên cạnh cuộc đời vợ mình để chờ đợi sự quay về của người vợ hiền, nếu không quay về vì yêu thương thì cũng xin vì bổn phận. Qua ông, tôi bắt gặp hình ảnh chờ đợi của Thiên Chúa, Ngài đã kiên nhẫn đứng bên lề cuộc đời của những người đã chọn Ngài là Chúa nhưng chỉ là môi miệng để ngày qua tháng lại tiếp tục mòn mỏi trông chờ. Một Thiên Chúa đầy quyền uy nhưng thật tội nghiệp vẫn lặng lẽ đứng đó, không một lời giải thích cho thái độ tưởng như hờ hững, lạt lẽo của mình, với đôi cánh tay giang rộng để chờ đợi không chỉ thân xác, không chỉ hình thức, không chỉ môi miệng nhưng là một tình yêu đích thực từ trái tim, một cái xác có hồn, một sự dâng hiến trọn vẹn tuyệt vời của người yêu.

Ngược lại với sự quảng đại chờ đợi trong âm thầm nhẫn nhục của người chồng là một sự phản bội tế nhị của "người ấy":

"Chỉ có ba người đã đọc riêng

Bài thơ đan áo của chồng em

Bài thơ đan áo nay rao bán

Cho khắp người đời thóc mách xem."

Là giết đời nhau đấy biết không? (Bài thơ cuối cùng)

Bây giờ thì nàng đã rõ rồi tấm lòng yêu thương của người mà nàng hằng ấp ủ trong tim. Trong khi người con gái "vườn Thanh" lo lắng "nếu biết ngày mai tôi lấy chồng. Trời ơi! Người ấy có buồn không? với một niềm tin mạnh mẽ vào người yêu "nhưng tôi vẫn chắc nơi trời lạ. Người ấy ghi lòng vẫn nhớ em" và nỗi khắc khoải mong chờ được tái ngộ dù chỉ trong mơ "tiếng lá thu khô xiết mặt hè. Như tiếng chân người len lén đến". Thế mà người ấy lại nhẹ nhàng đem tình nàng "rao bán" trên mặt báo. "Bài thơ đan áo" chỉ viết riêng cho chị chia sẻ nỗi lòng u uất của người con gái lấy chồng phương xa, giờ còn đâu nữa những tâm tư thầm kín của người thiếu phụ khuê các. Người ta đã quên rồi lời hẹn xưa: "Cố quên đi nhé câm mà nín. Đừng thở than bằng những giọng thơ". Người ta thương gì "một mảnh lòng tan vỡ", xót xa gì "một tâm hồn héo", tiếc gì một đóa "hoa tàn dấu xác xơ". Không ăn được thì đạp đổ! Hạnh phúc của người yêu nào có nghĩa lý gì! Thẳng tay, phũ phàng và dứt khoát "lại chính là anh, anh của em" đó! Đâu rồi một tâm hồn nghệ sĩ cao thượng? Đâu rồi nét quân tử của người yêu hoa? Chả trách nào tiếng chim trong lồng tắt lịm từ đó!

Hình ảnh "người ấy" phải chăng là hình ảnh của thế gian: đẹp đẽ, lãng mạn, nên thơ... khi tình đang mặn nồng, thưở "nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn". Nhưng khi lòng tôi thao thức với lời mời gọi thiêng liêng từ trong đáy tim thì thế gian cố níu kéo bằng những dụ dỗ ngon ngọt, những hình ảnh phù phiếm, sự hưởng thụ thân xác. Và khi tôi nhất quyết quay gót trở về với Thiên Chúa thì bộ mặt thế gian biến đổi với những gian trá mưu mô xảo quyệt, với hành động trả thù bỉ ổi nhằm phơi bày tội lỗi thầm kín của tôi cho dù làm thế "là giết đời nhau". "Đời chỉ đẹp khi tình còn dang dở!" Tình đã dang dở rồi đây nhưng người trong cuộc có thấy đẹp hơn, thơ mộng hơn không hay chỉ toàn cay đắng phũ phàng?

Thế gian là thế đấy! Người tình là thế đó! Mặc dù "oán hờn anh mỗi phút giây" nhưng lòng thì "giận anh không nỡ nhớ không thôi"! Thiên Chúa có lẽ quá thấu hiểu sự yếu đuối mù quáng của con người nên hai chữ TỈNH THỨC được lập đi lập lại nhiều lần trong giáo huấn của Ngài và ân sủng từ trời cao không ngừng tuôn đổ để giúp con người biết lựa chọn và sống với sự chọn lựa của mình một cách sáng suốt.

Chuyện tình nào rồi cũng có đoạn kết, mối tình tay ba nào cũng phải kết thúc bằng sự lựa chọn. Như "Người chồng - Người tình" không thể cùng song hành với nhau trong cuộc sống "Người vợ", thì Thiên Chúa cũng không thể cùng đồng hành với thế gian trong trái tim và linh hồn một người. Tôi đang ở đâu trong mối tình tay ba giữa "Thiên Chúa - Thế gian - và Tôi"? Tôi sẽ chọn lựa ai, chỉ một trong hai? Và sẽ sống với thái độ nào trong sự tự do lựa chọn đó?

Lang Thang Chiều Tím

Thursday, August 30, 2007

NGỌN LỬA TÌNH YÊU

Tại một khu phố cổ Ấn Độ, trên đường cũng như trong nhà thường không có đèn. Giữa những khu phố như thế, thỉnh thoảng người ta thấy mọc lên một ngôi đền Ấn Giáo. Dĩ nhiên, trong những ngôi đền như thế, ánh sáng cũng không được đốt lên thường xuyên.

Từ trên nóc đền thờ cũng như dọc theo bốn bức tường, họ treo những chiếc lồng đèn. Khoảng trống trong những chiếc lồng đèn ấy vừa vặn để cho vào một chiếc đèn dầu.

Bình thường ngôi đền thờ vắng lạnh vì tăm tối. Nhưng cứ mỗi sáng sớm, khi các tín hữu dùng đèn dầu soi đường để đi qua các khu phố đến đền thờ cầu nguyện, họ cũng mang chính những ngọn đèn ấy và đặt vào trong những chiếc lồng đèn trong đền thờ. Thành ra, khi mỗi tín hữu đặt ngọn đèn của mình vào trong các lồng đèn, thì ngôi đền thờ bỗng sáng rực lên một cách lạ kỳ.

*************************

"Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên" (Lc 12,49). Đó là tâm nguyện của Đức Giêsu và cũng là trách nhiệm của mỗi người tín hữu chúng ta: Thế giới này là một ngôi đền thờ rộng lớn mà mỗi tín hữu phải đặt vào đó ngọn lửa tình yêu, để thế giới này bừng sáng lên tình anh em một nhà.

Ngọn lửa mà Đức Giêsu đã ném vào thế giới này, chính là ngọn lửa tình yêu vẫn bừng cháy trong trái tim Người; là ngọn lửa phục sinh đã bừng lên trong tâm hồn người tín hữu giữa đêm tăm tối, cùng là ngọn lửa Thánh Thần đã bừng sáng trí khôn các tông đồ ngày lễ Ngũ Tuần.

Nếu con người cần cơm bánh để sống còn, thì họ cũng cần tình thương để tồn tại.

Nếu con người cần áo quần để che thân, thì họ cũng cần tình thương để sưởi ấm.

Nếu lòng hai môn đệ Emmau đã bừng cháy lên khi nghe Lời Chúa, thì nhân loại sao chẳng rực sáng lên khi nghe lời yêu thương của Người?

Lời yêu thương đã được viết lên trên cây thập giá, trong cuộc khổ nạn đau thương, đó chính là phép rửa mà Đức Giêsu phải chịu, để ném lửa yêu thương vào trần gian.

Như Thiên Chúa Giavê đã hiện ra với Mô-sê nơi bụi gai cháy sáng và kêu gọi ông đi chu toàn sứ mạng, nay Người cũng sai chúng ta đi loan báo sứ điệp yêu thương cho trần thế.

Như Đức Giêsu đã đẩy lui bóng tối tử thần bằng ánh sáng Phục Sinh và sai các môn đệ đi loan báo tin vui, nay Người cũng mời gọi chúng ta hãy xua tan bóng tối của bất công, hận thù, nghèo đói với ánh sáng của tình thương cứu độ.

Như Thánh Thần đã ngự xuống trên các tông đồ dưới hình lưỡi lửa để biến họ thành chứng nhân Nước Trời, nay Người cũng muốn chúng ta mang ngọn lửa tình yêu, thanh luyện và sưởi ấm các tâm hồn.

Mahatma Gandhi, vị thánh của Ấn Độ đã nhận định rất sâu sắc về ngọn lửa tình yêu này như sau: "Một vật cứng rắn đến đâu, cũng sẽ tan chảy trong lửa tình yêu. Nếu vật ấy không tan chảy, chính vì ngọn lửa không đủ mạnh."

*************************

Lạy Chúa, xin đốt lên trong chúng con ngọn lửa từ trái tim yêu thương của Chúa, để chúng con soi sáng những ai còn ngồi trong tối tăm, sưởi ấm những kẻ đang lạnh lùng, thanh luyện những cõi lòng chai đá, để khắp nơi trên trái đất này tràn đầy ánh lửa tình yêu Chúa.

Thiên Phúc

Wednesday, August 29, 2007

HÔM QUA TÔI ĐÃ KHÓC

Em đến với tôi với một thân thể ốm yếu, mái tóc dài xơ xác, khuôn mặt gầy gò có đôi mắt to, đẹp nhưng chứa đầy sức cam chịu. Em có cái tên cũng đẹp: Nguyễn thị Thanh Vân. Vừa tròn 30 tuổi, có chồng và một con đều đã chết vì AIDS, em đã bị lây căn bệnh này từ chồng. Do không hiểu biết, em đã dấu hết mọi người kể cả những người thân trong gia đình. Bây giờ bệnh đã đi vào giai đoạn cuối, chẳng thể dấu ai được nữa, em để mặc cho người thân muốn làm gì thì làm và người ta đã mách cho em đến với tôi.

Sau nhiều ngày được chúng tôi chăm sóc tận tình, bệnh tình của em đã khá hơn. Khi sự gần gũi trở nên thân mật, cảm giác an toàn bên chúng tôi, em bắt đầu thổ lộ về cuộc đời của mình. Lúc chưa lấy chồng, em là một hoa khôi của một xứ đạo vùng ven thành phố. Em cũng là giáo lý viên và huynh trưởng Thiếu Nhi Thánh thể của giáo xứ. Rất nhiều anh chàng xếp rồng xếp rắn trước cửa nhà em. Cuối cùng, em cũng chọn được người em ưng ý nhất. Chồng em là con của một ông trùm trong giáo xứ. Em cho chúng tôi coi những tấm hình sinh hoạt của em hồi còn niên thiếu và hình đám cưới của em. Chúng tôi ngạc nhiên đến sững sờ vì cô dâu rất đẹp, tựa như các cô người mẫu. Chú rể cũng rất điển trai, trông thật xứng đôi. Em say sưa kể về đời mình, cặp mắt sáng long lanh. Tôi yên lặng lắng nghe từng lời em nói. Cứ thế, ngày lại ngày, tôi nhận thấy rõ nét vui vẻ và tươi tắn hiện trên gương mặt em. Em không còn cảm thấy cô đơn, lạc lõng nữa. Tôi biết em đã tìm được sự bình an trong tâm hồn!

Rồi một ngày nọ, bẵng đi mấy tuần, tôi không thấy em tới lấy thuốc để uống. Nóng ruột, tôi kiếm địa chỉ của em để đến thăm. Chúng tôi phải vất vả lắm mới kiếm ra được nhà vì nơi ở cũ đã được mẹ em bán đi và chuyển sang ở một vùng xa hơn để tránh sự thị phi của làng xóm. Chị em dẫn tôi vào chỗ em nằm. Trong một góc phòng nhỏ hẹp, nhìn thấy em tôi giật bắn cả người, mới có ba tuần lễ không gặp mà thân thể em bây giờ teo tóp lại như một đứa trẻ lên ba, chỉ còn da bọc xương. Cặp mắt đẹp với hàng lông nheo cong vút ngày nào bây giờ trũng sâu. Ánh mắt ấy bỗng vụt sáng khi nhìn thấy tôi. Tôi lại gần cầm lấy bàn tay xương xẩu của em, đưa tay kéo lại mấy sợi tóc loà xoà trước vầng trán nhô ra của khuôn mặt bây giờ trông như cái hộp sọ. Em níu chặt tay tôi và nghẹn ngào. Em nói em không muốn chết, tại sao Chúa lại bắt em mang căn bệnh này? Em khóc lạc cả giọng, khóc trong nỗi tuyệt vọng, đớn đau. Em đang cố gắng chiến đấu với thần chết. Muốn giúp em nhưng tôi chẳng thể làm gì được, chỉ biết nhìn em mà hai hàng nước mắt tôi tuôn rơi. Tôi không thể cầm lòng nổi trước mặt em, tôi khóc thương cho số phận trớ trêu, định mệnh sao quá tàn ác và khắc nghiệt với em. Tôi liên tưởng đến hình ảnh em vô tư nói cười khi tâm sự với tôi, nhớ đến những tấm hình em là cô dâu xinh tươi, kiêu sa lộng lẫy trong chiếc áo cưới soire tương phản lại hẳn hình hài em trong lúc này, chẳng lẽ số kiếp con người bọt bèo như thế này sao? Chúa có đối xử bất công với em không? Em cũng như tôi, cũng một thân phận đàn bà mà sao em gặp phải những nghịch cảnh éo le, hà khắc đến như vậy. Tôi nghĩ số phận của em chắc chắn sẽ khác đi nếu ngày xưa gia đình em đi vượt biên trót lọt, hoặc cuộc đời của em sẽ không đến nỗi khốn khổ như thế này nếu em gặp được người đàn ông khác làm chồng…

* * * * *

Tôi tìm thấy anh trong một cái ống cống nằm trơ trên mặt lộ cạnh bến xe miền Đông. Anh trốn trong đó để tránh cái nắng gắt của buổi trưa mùa hạ. Người thân và bạn bè không cho anh ở nhờ dù chỉ là trên cái vỉa hè, vì anh đang bị mắc phải căn bệnh mà ai nghe cũng phải sợ hãi. Tôi lại gần ống cống, cúi thấp người và gọi anh ra. Anh ngần ngại vì có lẽ anh chẳng biết tôi là ai, và cũng có thể là do mặc cảm nên không muốn ra. Tôi phải dùng lời ngọt ngào để “dụ” anh ra. Một số người ở hai bên đường tò mò tiến lại chỗ chúng tôi và săm soi quan sát anh. Tôi nghe họ xì xào: “Đáng đời, ăn chơi cho lắm thì bây giờ phải chịu thôi, mấy thứ này giúp làm gì”. Bỏ ngoài tai những lời bình phẩm, tôi tiếp tục thuyết phục anh. Phải tốn rất nhiều... hơi mới “lôi” được anh ra khỏi cái ống cống, tôi mượn một chiếc ghế của quán cà phê ven đường cho anh ngồi, rồi bắt đầu hỏi về “lý lịch” của anh. Nhưng câu trả lời tôi nhận được là “không”. Cuối cùng tôi hỏi anh là muốn được giúp gì, lúc này anh mới trả lời là muốn được điều trị bệnh vì cả tuần qua anh bỏ ăn, chỉ uống được nước. Tôi chẩn đoán sơ bộ biết anh mắc bệnh lao nên thuê một chiếc xe xích lô chở vào bệnh viện lao Hồng Bàng. Tại đây người ta bắt tôi phải đóng 500.000 đồng mới cho nhập viện và trong khi điều trị tôi phải đóng tiền tiếp tục cho đến khi bệnh nhân xuất viện. Chúa ơi! biết lấy tiền đâu ra bây giờ? Việc này làm tôi bối rối, tôi thầm nguyện cầu. May sao, tôi gặp được một ông bác sĩ người Công giáo, cũng làm việc tại bệnh viện này. Nghe tôi trình bày, ông bác sĩ nói tôi chịu khó đóng cho anh 500.000 đồng để nhập viện, phần còn lại để ông lo cho. Tôi mừng húm. Bây giờ chỉ còn phải lo cái ăn cho anh ấy hàng ngày nữa là xong. Người ta mách cho tôi biết ở cuối bệnh viện có các Sơ chuyên phục vụ bữa ăn từ thiện. Tôi xuống tìm gặp các Sơ để “ngoại giao”. Các Sơ đồng ý, tôi đưa tên tuổi và số phòng nằm của anh cho Sơ. Thế là xong! tôi thở phào. Lúc này, trời đã chập choạng tối, tôi mệt lử cả người nhưng ra về lòng lại thấy nhẹ nhàng, thanh thản…

Cứ vào chiều thứ bảy hàng tuần, chúng tôi thay nhau đến thăm, mua quà bánh và những thứ cần dùng cho anh. Tuần nào vì nhiều công việc chúng tôi không đến được thì anh buồn bã, trông chờ. Thấm thoát hai tháng trôi qua, anh được xuất viện, sức khoẻ của anh cũng đã được hồi phục. Tôi đoán anh không dám làm phiền tôi nữa, vì đã lặng lẽ rời bệnh viện mà không hề cho tôi biết. Một tuần sau, có người phone báo tin cho tôi ở quận Phú Nhuận có một người mắc bệnh AIDS đang nằm trước cửa nhà họ. Tới nơi, tôi nhận ra là anh. Thấy tôi, anh đưa mắt nhìn như cầu cứu. Mới có 1 tuần mà sắc diện anh trông xuống dốc hẳn đi. Tôi lại phải đi tìm một nơi ở cho anh. Tôi cùng với mấy nhóm viên thuê cho anh một “túp lều” rộng 9m2 ở mãi tận quận Bình Tân. Phải đi xa như thế tiền thuê mới rẻ! Lần này chúng tôi phải đi sắm nồi niêu soong chảo, bát đĩa, bếp nấu… và nhiều vật dụng linh tinh để anh tự thân nấu ăn. Hàng tuần, chúng tôi lặn lội tới nơi ở của anh để đưa thuốc uống điều trị bệnh và đưa tiền cho anh mua thức ăn. Ở đây, xa thành phố ồn ào, cây cỏ nhiều, còn một khoảng trời xanh rộng rãi nên bầu không khí thiên nhiên thật tốt cho người bệnh. Một buổi chiều nọ, anh ngỏ ý xin thêm tiền nhưng tôi không cho vì nghĩ nếu là tôi thì với số tiền này cũng sống tạm được. Kể từ lúc đó tôi giúp gì anh nhận nấy và không thấy anh đòi hỏi gì nữa.

Rồi sức khoẻ anh ngày một yếu dần, lúc này anh mới chịu “tiết lộ” về đời tư của mình cho tôi nghe. Ngày xưa, anh là một trưởng Công an của một phường ở quận BT, anh đã có vợ và 1 con trai 16 tuổi, nhưng vợ con anh đều đã từ bỏ anh lâu lắm rồi. Anh không dám quay về để xin lỗi và gặp mặt đứa con thân yêu nữa, tài sản của anh có tới 3 căn nhà phố lầu, nhưng đã bay theo những cuộc ăn chơi trác táng của anh hết rồi. Lúc còn tiền của - xung quanh anh rất nhiều bạn bè, bây giờ thân tàn ma dại chẳng còn một ai thèm ngó tới, nhất là lại mắc thêm căn bệnh này nữa, họ lại càng kinh tởm, xa lánh. Anh cho biết còn một người anh trai hiện đang làm thiếu tá CSCĐ thành phố và cho tôi số điện thoại của ông anh để tôi liên lạc giúp, nếu anh có mệnh hệ gì (sau này tôi đã bị ông thiếu tá này từ chối thẳng khi nghe nói về anh). Anh tâm sự với tôi với giọng buồn rầu nhưng bình thản. Anh cảm ơn tôi và ngỏ ý là rất tiếc không có cơ hội để đền đáp.

Một tuần sau, chúng tôi tới thăm, thấy hai con mắt của anh trũng sâu xuống, tôi hỏi thăm về sức khoẻ thì anh cho biết ba ngày qua anh đi tiêu chảy rất nhiều. Linh cảm là anh không còn sống được bao lâu nữa, tôi vội gởi anh về Trung Tâm Mai Hoà là nơi mà các Sơ lo giúp cho những người mắc bệnh AIDS không thân nhân được về với Chúa bình an. Anh về đây được hai tuần lễ, Sơ Giám Đốc phone cho tôi báo tin sức khoẻ anh rất kém, có lẽ không qua khỏi và anh rất muốn gặp tôi. Dù bận rộn và xa xôi, sáng hôm sau tôi cũng cố gắng thu xếp công việc tới với anh để thoả ý nguyện của người sắp lìa trần.

Khi tôi bước chân vào tới cửa phòng, tôi thấy anh đang nằm thở thoi thóp, hàm đã cứng không còn nói được gì nữa. Vậy mà không hiểu sao, khi biết tôi có mặt, anh như tỉnh lại. Tôi cầm tay anh hỏi còn nhận ra ai không, anh chớp mắt khẽ gật đầu. Giữa khoảnh khắc sự sống và cái chết, tôi thầm thì với anh những lời an ủi, khích lệ anh sắp về thiên đàng gặp Chúa là nơi mà anh được hưởng hạnh phúc thực sự. Cặp mắt nhợt nhạt của anh nhìn tôi chăm chăm, miệng ú ớ muốn nói gì đó, nhưng không ai hiểu được anh muốn nói gì.

Một Sơ đứng bên cạnh hỏi anh còn muốn gặp ai nữa, anh cố gắng phát âm nhưng không được. Tôi chợt hiểu ra, nên hỏi anh còn muốn gặp đứa con nữa phải không, anh mừng quá chớp mắt. Nhưng giờ ra đi của anh đã cận kề và tôi cũng chẳng biết con anh ở đâu mà tìm. Tôi đành phải nói cho anh yên lòng là con anh hiện rất ngoan, học giỏi và đang sống rất tốt với mẹ nó, nếu sau này có cơ hội gặp, tôi hứa sẽ chuyển ý của bố nó đến với nó. Nghe tôi nói vậy anh nhìn tôi như cảm ơn, tôi hỏi anh còn muốn gì nữa không, anh lắc nhẹ đầu rồi nhắm mắt lại và từ đó không nói gì nữa.

Biết anh chuẩn bị được Chúa rước về, chúng tôi hát nhè nhẹ bài “Trong trái tim Chúa yêu nhân từ” cùng hiệp thông với anh. Khi chúng tôi kết thúc bài hát là anh trút hơi thở cuối cùng. Hồn của anh đã bay về với Chúa. Tôi đưa tay vuốt mắt cho anh lần cuối cùng và thầm nhủ: từ nay tôi sẽ không bao giờ còn gặp anh nữa, không còn phải lo đến chiều thứ bảy đi thăm anh, không còn cơ hội để lo đến miếng ăn, chỗ ở cho anh, tôi sẽ không còn…

Nghĩ đến đây tự dưng nước mắt tôi tuôn trào, tôi khóc ngon lành trước mặt các Sơ ngơ ngác nhìn. Không ai hiểu được tại sao tôi không thân thích, họ hàng, không bạn bè, không thân cận mà tôi lại khóc thương anh đến thế. Vâng, đúng như vậy, chỉ có mỗi mình tôi hiểu là tại sao tôi khóc thôi. Tôi khóc vì hối hận – tại sao tôi lại không đối xử tốt với anh thêm một chút nữa nhỉ? Nhưng những giọt nước mắt của tôi muộn màng mất rồi vì tôi nhớ đến lúc anh còn sống, còn ăn uống được, anh đã xin tôi thêm tiền và tôi đã keo kiệt mà không cho….

Nguyễn Thị Vinh

(Chị Nguyễn Thị Vinh là trưởng nhóm “Tiếng Vọng” gồm có khoảng 15 anh chị em thiện nguyện đang xả thân phục vụ các bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS. Nhóm được linh mục Chánh xứ Nhà thờ Phú Trung, quận Tân Bình, cho sử dụng hai căn phòng nhỏ để làm nơi tham vấn và khám bệnh miễn phí cho các bệnh nhân. Mọi chia sẻ với chị Vinh, xin liên lạc theo địa chỉ email: echovinh@yahoo.com )

Monday, August 27, 2007

TÀU TRỤC HAY TÀU BUỒM

Có chàng thanh niên nọ viết thư cho một linh mục. Anh cho phép vị linh mục tùy ý sử dụng lá thư này. Ngoại trừ vài thay đổi không đáng kể thì đây là nguyên văn bức thư:

“Con đã từng là tay bơi lội hàng đầu trong bảng xếp loại của con ở Gia Nã Đại. Một ngày nọ con đã để cho lũ bạn dụ dỗ con thử dùng ma tuý. Thế là con bị cắn câu và chẳng bao lâu sức khoẻ, tâm thần, thể lý và đời sống thiêng liêng của con bị sa sút tồi tệ… Con biết con ngày càng lún sâu. Con trở nên cô đơn và kinh hãi nhưng không biết ngỏ lời cùng ai. Sự việc càng thêm tồi tệ khi con thiếu nợ các tay buôn ma tuý hơn 3.000 đô. Con tính rằng chỉ còn một lối thoát duy nhất là tự tử, vì thế con đi về nhà và viết mẩu giấy sau: Bố mẹ kính mến, Con rất tiếc phải gây cho bố mẹ nỗi đau đớn này… Xin bố mẹ đừng quá đau lòng. Nếu con cứ tiếp tục sống như thế này thì chắc hẳn con còn gây cho bố mẹ muộn phiền hơn là hành động con vừa gây ra cho mình. Con vẫn yêu quí bố mẹ và toàn thể gia đình mình”. Ký tên. Christopher.

Thế là con bắt đầu nốc rượu vào để cố gắng thắng lướt nỗi sợ hãi khi con đang chuẩn bị lìa đời. Nhưng rồi, vào phút cuối cùng thì một điều gì đó đã ngăn cản con lại. Con bấu tay nhắc điện thoại lên và gọi đến trung tâm cấp cứu. Con không hề hay biết là vào lúc đó mẹ con đang cầu nguyện điên cuồng cho con. Vài ngày sau, con được đưa vào trung tâm cai nghiện ma tuý và chẳng bao lâu con được hồi phục cả sức khoẻ, thể lý lẫn tâm lý. Thế rồi con bắt đầu đọc Kinh Thánh. Càng đọc con càng cảm thấy bình an vui vẻ. Kinh Thánh đã dẫn con đến niềm tín thác trọn vẹn vào Chúa, đồng thời trong lúc đó bừng dậy nơi con lòng ao ước học hỏi về Chúa Giêsu để được hiểu biết Ngài hơn. Cũng thực khôi hài, con đã phải quì gối xuống ít nhất tới mười lần để cầu xin Chúa đến trong đời con trước khi con nhận ra được rằng Ngài đã hiện diện ở đó rồi…..

Sự việc này xảy ra cách đây 5 năm. Từ đó đến nay, Chúa đã ban phước cho con rất nhiều. Hiện con đang dạy trong một trường trung học Công Giáo và đang hoạt động trong cộng đoàn giáo xứ của con… Con cũng vẫn luôn cố gắng học cách mở rộng lòng mình càng ngày càng nhiều cho tình yêu và lòng thương xót của Chúa là Cha chúng ta.

Kính thư. Christopher.

**********************************

Lá thư trên minh họa cho một trong những chủ điểm của bài Phúc Âm hôm nay: Cánh cửa nước Trời quả thực là hẹp. Trong trường hợp cậu thanh niên Christopher thì hình như cực kỳ chật hẹp. Tuy nhiên, điều đó vẫn không cản chàng ta cố gắng bước vào. Chàng ta đã đấu tranh, tranh đấu cho đến khi đạt được. Tôi tự hỏi có được bao nhiêu người dám can đảm đấu tranh gian khổ như chàng ta?

Có người cho rằng có tới 3 loại Kitô hữu: Loại Kitô hữu “tàu trục”, loại Kitô hữu “tàu buồm” và loại kitô hữu “bè mảng”.

Loại Kitô hữu “tàu trục” gồm những người bước theo Chúa Giêsu không chỉ khi trời nắng đẹp mà cả trong lúc bão tố, không chỉ có sóng gió thuận chiều mà cả khi sóng gió ngược chiều nữa. Họ là những kẻ đi dự lễ không phải vì bó buộc mà chỉ vì Chúa Giêsu đã truyền trong bữa tiệc ly: “Hãy làm việc này mà nhớ đến Ta” (Lc 22:19). Họ giúp đỡ kẻ khác không phải vì họ cảm thấy thích thú mà chỉ vì do lệnh truyền của Chúa Giêsu: “Các con hãy yêu mến nhau như Ta yêu mến các con” (Ga 15:12). Tóm lại, đây là loại người mà các bài đọc hôm nay khuyên ta phải noi gương bắt chước.

Ngược lại, loại Kitô hữu “tàu buồm” là những kẻ theo Chúa Giêsu chỉ khi sóng gió thuận chiều, còn khi sóng gió thổi nghịch thì họ liền xuôi theo chiều nào mà họ bị cuốn đi. Họ là những kẻ đi lễ khi gia đình và bè bạn cùng đi. Còn nếu chỉ riêng mình họ, họ thường hay bỏ xem lễ. Họ là những người thường hỏi: “Tôi còn làm được gì nữa thì mới bị coi là có tội?”, thay vì phải nói: “Tôi có thể làm thêm được bao nhiêu nữa vì tình yêu?” Tóm lại, họ là những kẻ theo Chúa Giêsu khi nào cánh cửa mở rộng, còn khi gặp cửa hẹp thì họ lưỡng lự ái ngại. Họ là những kẻ hùa theo đám đông hơn là bước theo Phúc Âm.

Cuối cùng là loại Kitô hữu “bè mảng”. Đây là những Kitô hữu chỉ có trên danh nghĩa mà thôi. Họ không thực sự theo Chúa Giêsu ngay cả khi sóng gió thuận chiều, và nếu có theo đi chăng nữa thì cũng chỉ là do có người đưa đẩy mà thôi. Họ là những người thực hành Kitô giáo không phải vì họ muốn mà là vì bị bó buộc.
Tóm lại, họ chỉ là những Kitô hưũ “HỮU DANH VÔ THỰC”

Từ đó chúng ta trở lại với các bài đọc hôm nay. Câu hỏi đặt ra trước mắt chúng ta là:

Chúng ta là một Kitô hữu loại “tàu trục”, “tàu buồm” hay “bè mảng”?

Chúng ta có phải là loại kitô hữu “tàu trục” không? Chúng ta có theo Chúa Giêsu lúc thuận lợi cũng như lúc trắc trở không? Chúng ta có theo Ngài không chỉ qua cánh cửa mở rộng mà còn qua khung cửa hẹp nữa không? Hay chúng ta chỉ là Kitô hũư loại “tàu buồm”? Chúng ta chỉ theo Chúa những khi thuận buồm xuôi gió? Chúng ta chỉ theo Ngài qua khung cửa rộng? Hoặc tệ hơn nữa, chúng ta chỉ là kitô hữu loại “bè mảng” nghĩa là những kitô hữu “hữu danh vô thực?” Đây là những câu hỏi đặt ra cho chúng ta trong các bài đọc hôm nay. Không ai có thể trả lời dùm chúng ta hết, chúng ta phải tự trả lời lấy. Các bài đọc hôm nay mời gọi chúng ta nhìn thẳng vào những câu hỏi này với lòng can đảm của Christopher khi cậu ta phải đương đầu với những vấn đề của riêng cậu. Nếu chúng ta biết đương đầu với lòng can đảm như cậu ta thì chắc chắn chúng ta sẽ nhận được ơn Chúa trợ giúp giống như trường hợp cậu ấy

**********************************

Chúng ta hãy kết thúc với bài thơ của thi sĩ người Anh, John Oxenham:

“Trước mặt mỗi người đều chỉ mở ra một con đường.

Đường cao, đường lưng chừng hoặc đường thấp.

“linh hồn cao thượng chọn lấy nẻo cao

“Linh hồn thấp kém bước vào ngõ thấp

“và ở giữa hai nẻo đường mù sương ấy,

“Số còn lại cứ ngập ngừng qua lại,

“Nhưng mỗi người chỉ có

một con đường mở ra trước mặt:

Đường cao, đường lưng chừng hoặc đường thấp,

Mỗi người đều phải quyết định xem:

Linh hồn mình sẽ tiến bước theo lối nào”.

Mark Link S.J.

Sunday, August 26, 2007

BIỆN HỘ

“Một hôm ra đường, tôi thấy một anh tuổi trạc 35-40, đứng cầm bảng “Work for food”. Anh trông khỏe mạnh, áo quần tươm tất. Tôi tự hỏi người khỏe mạnh như anh sao không đi làm? Hay anh lười biếng chăng? Cho anh ta tiền liệu có giúp hay còn hại anh hơn? Từ suy đoán này đến suy đoán khác, tôi vẫn không có câu trả lời. Tôi giả lờ nhìn sang hướng khác, tránh phải đối diện với đôi mắt u ẩn, khẩn cầu của anh. Tôi mong đèn bật xanh sớm để phóng xe đi cho thật lẹ, để lương tâm khỏi phải ở trong tình trạng giằng co, bứt rứt như vầy. Bóng anh đã khuất, nhưng cặp mắt u buồn của anh vẫn còn in đậm trong tâm trí tôi. Lòng tôi bị dằn vặt, áy náy dâng tràn, vì đã bỏ lỡ cơ hội giúp người.” (Lời chia sẻ của Terri)

“Tôi cũng giống như chị. Tôi phải mất một thời gian khá lâu mới có thể cho đi mà không thắc mắc người homeless đó sẽ làm gì với số tiền tôi cho.” (Lời chia sẻ của Sherry)

“Năm đầu khi mới sang Mỹ, có lần tôi cho một người nghèo tiền. Tôi vừa quay lưng bước được vài bước, bị một ông cảnh sát chặn lại. Ông ta hỏi người homeless kia đã nói gì với tôi. Với giọng run run, pha lẫn chút sợ hãi, tôi nói với viên cảnh sát rằng anh ta chỉ nói cám ơn. Xứ Mỹ này luật lệ phức tạp quá, có khi giúp người khác còn bị phiền toái thêm. Từ đó về sau, tôi không dám giúp ai ngoài đường nữa.” (Lời chia sẻ của BN)

“…Mỗi khi Giáng Sinh về, nay đã 26 năm, hình ảnh của một buổi sáng mùa đông năm nào lại sống dậy trong tôi. Hôm đó là sáng 25, Giáng Sinh, lúc đó khoảng 6 giờ sáng, tiết đông lạnh vẫn còn vấn vương trong không gian, vừa đạp xe, tôi vừa cúi gập cổ, hai tay sát vào người để tránh bớt cái giá lạnh. Cửa các căn nhà đóng kín mít. Mọi người vẫn còn chìm đắm trong giấc ngủ. Đi ngang qua trước thềm một căn nhà, tôi thấy một người homeless mình trần, đang nằm co ro. Thoạt trông thấy anh, tôi muốn dừng xe lại, cởi ngay chiếc áo trên người đưa cho anh. Nhưng một suy nghĩ khác chợt đến: “Không được! Tôi không thể để mình trần đi về căn nhà tôi đang ở. Như thế dễ gây sự chú ý cho công an khu vực. Họ sẽ chặn tôi, hỏi giấy tờ và làm phiền đến người chủ nhà nơi tôi đang cư ngụ (tôi đang trốn quân dịch, và ở tạm nhà người quen). Nghĩ thế, tôi bỏ ý trên, đạp xe thật lẹ về nhà. Tôi có thể trở ra với một chiếc áo khác cho anh, nhưng tôi đã không làm việc ấy. Suốt ngày hôm đó, tôi sống trong ray rứt, dày vò của lương tâm vì đã không giúp người khốn cùng kia. Hình ảnh đó đeo đuổi tôi suốt bao nhiêu năm. Đến nay tôi vẫn không quên được. Tôi không thể đi ngược dòng thời gian tìm anh để tặng chiếc áo, tấm chăn. Nhưng cũng từ ngày đó trở đi, tôi không bỏ lỡ các cơ hội trao những cái áo, tấm chăn tình thương đến những người anh, chị, em khốn cùng của tôi.” ( Lời chia sẻ của TB)

******************

Qua các tâm tình chia sẻ của các anh chị em trong nhóm chiều nay, chúng tôi thấy mình giống như vị linh mục và vị luật sĩ trong bài Tin Mừng của Thánh Luca (10:25-37). Chúng tôi hay tìm mọi lý lẽ để biện hộ, viện cớ này, cớ kia cho những thiếu xót, bất toàn của bản thân từ những việc nhỏ nhặt như đọc kinh đêm, dự lễ ngày Chúa Nhật, đến những sinh họat của cộng đoàn, hoặc các việc làm từ thiện, bác ái:

- Đêm về, nằm trên giường làm dấu thánh giá, miệng lẩm nhẩm: “Chúa ơi! Chiều nay con phải thêm giờ, mệt quá! Xin Chúa cho con ngủ một đêm an lành. Amen.”

- Lễ Chúa Nhật: “Không sao, chắc Chúa không chấp nhất gì chuyện đi lễ trễ. Không nghe được Lời Chúa, nhưng rước Mình và Máu Thánh Chúa vào lòng cũng tốt rồi.”

- Tổng vệ sinh trong giáo xứ: “Mình ghi danh, nhưng bây giờ không đi, đâu có ai biết. Không có mợ, chợ vẫn đông!”

- Ca đoàn: “Nói rằng tập hát lúc 8 giờ, nhưng có ai đến đúng giờ bao giờ! Người ta đi trễ, tôi cũng đi trễ như họ!”

- Việc từ thiện: “Quá nhiều hội từ thiện xin giúp đỡ, làm sao biết ai thật, ai giả? Liệu tiền mình gởi có đến tay mấy người nghèo hay không? Thôi khỏi giúp!”

- Vân vân…. và vân vân…..

Vị linh mục trong đọan Tin Mừng trên có thể không đến nỗi thất nhân tâm vậy đâu. Biết đâu, ngài vừa đi vừa cầu nguyện xin Chúa gởi người khác đến giúp người bất hạnh kia thì sao? Để giáo dân chờ lâu, ngài sẽ bị mất uy tín.

Vị luật sĩ kia có thể có cùng suy nghĩ với vị linh mục. Vì sợ trễ buổi họp với các viên chức lớn trong cộng đồng, nên ngài đành bước sang bên kia đường, để mặc nạn nhân nằm nửa sống nửa chết.

Chỉ có người xứ Samari, người không cùng một chủng tộc, màu da với người hành khách xấu số, đã dừng lại săn sóc nạn nhân, không viện cớ chối từ. Khi đã làm, ông không làm qua loa, cho có lệ. Nguợc lại, ông làm đến nơi, đến chốn. Chính ta tay ông đã băng bó vết thương và đặt nạn nhân lên lưng con lừa, còn ông đi bộ. Ông trao cho chủ quán trước một số tiền để lo thuốc men cho nạn nhân, và hứa: “Có tốn kém bao nhiêu, khi tôi về, chính tôi sẽ hoàn lại bác.”

Tình yêu chân thật, không có chỗ cho sự bào chữa len vào.

******************

Lạy Chúa, xin Chúa hãy biến đổi con tim chai đá của con thành con tim thịt mềm biết rung động, xót thương, cảm thông với nỗi đau của những người anh em đồng loại của con như người Samaritan nhân từ trên. Xin đừng để con tim con bị dẫn dắt bởi luật lệ của xã hội, lý lẽ của lý trí, cớ này, cớ kia. Nhưng hãy để luật yêu thương của Chúa là đường, là kim chỉ nam cho mọi lời nói, hành động, việc làm của con. Amen!

Lữ Khách

Saturday, August 25, 2007

Má đã cô đơn biết chừng nào!

Lý Thành Dũng

Tôi bần thần nhìn hàng khói nghi ngút đang lan tỏa, vẫn là mùi hương trầm quen thuộc xưa nay má hay thắp trên bàn thờ. Nhưng lần này thì khác, tôi đang thắp nén nhang tiễn đưa má. Tiếng gõ mõ tụng kinh đều đều của vị sư vừa quen vừa lạ.


Hồi còn sống má thường tụng kinh mỗi tối. Trước kia má không mấy tin, nhưng từ sau khi bị tai biến mạch máu não, má như đã về gần thế giới bên kia hơn. Má ngồi hàng giờ trước bàn thờ, lau chùi mấy tấm ảnh cũ, sắp xếp lại bình hoa... Tôi đâu có ngờ má soạn chỗ cho mình sớm thế. Cảnh thì còn đây mà người đâu chẳng thấy!
Trên bàn, vỉ Alaxan đang uống dở còn vài viên, chai dầu nóng chưa đậy nắp lại chắc là má vừa mới xức. Ngón tay trỏ của má vẫn còn băng chưa lành. Mới sáng má còn tươi cười mở cổng cho tôi đi làm, chiều về má đã chết trên giường, thanh thản như đang nằm ngủ, cái tivi trắng đen vẫn phát chương trình cải lương mà má thích. Nhà có tivi màu nhưng má chẳng bao giờ dùng đến, chỉ xài mỗi cái tivi cũ này thôi.

Khi đi làm có đồng ra đồng vô, không để thua kém những gia đình hàng xóm, tôi cũng mua một cái tivi màu mới cáu. Nghĩ tiếc cái tivi cũ còn tốt, má mang để dưới bếp. Lúc đầu má cũng thích cái tivi mới, nhất là khi xem Tây du ký, cảnh bảy con yêu nhền nhện mang bảy sắc áo khác nhau xanh đỏ tím vàng rực rỡ. Má cùng xem với con cháu, khen cảnh này hay, cảnh kia đẹp.

Nhưng không như ngày xưa chương trình truyền hình chỉ có một kênh duy nhất, tối tối cả nhà quây quần cùng nhau xem. Nay tôi thì thích đá banh mà thằng cu Tí cũng không chịu thua, lúc nào cũng giành coi phim hoạt hình. Đi thì thôi, cứ về đến nhà là cha con lại cãi nhau. Những lúc như thế tôi thường quát bảo con đi học để tôi coi thời sự khiến thằng nhỏ cứ thút thít khóc. Thế là má lại vỗ về cháu nội, bảo xuống bếp coi tivi đen trắng với má.
Có hôm thằng cu Tí nghịch, giấu cái remote khiến tôi cáu đánh cho một trận. Má vừa can con trai, vừa dỗ cháu nội. Tôi không thích má chiều cháu quá, sợ hư. Nhưng tôi cũng chẳng bao giờ la con khi nó yêu sách này nọ với má.

Cũng chỉ là những chuyện cỏn con như thế, tôi không biết được một ngày 24 giờ má tôi làm gì, sống ra sao? Tôi cũng không bao giờ nghe má than van về những căn bệnh của người già luôn hành hạ má. Nhìn những viên thuốc uống dở còn lại trên bàn, tôi ứa nước mắt. Không biết má tôi đã khám bệnh ở đâu, ai đưa đi hay là má xem quảng cáo rồi tự mua thuốc uống?

Trước đây tôi cũng không để ý rằng càng ngày má tôi càng trở nên lỗi thời trong chính căn nhà của mình. Má không dám đụng vào bếp gas vì sợ nổ. Má cũng rất ớn dàn máy hát với bao nhiêu là dây điện nút xanh, nút đỏ. Chỉ có mỗi cái tivi cũ là chịu phép má, khi mất hình, má vỗ mạnh vào nó là hình lại có ngay mà chẳng sợ hư hao gì. Càng nhìn cái tivi cũ, hình đã nhòe, tiếng không còn rõ, tôi càng thấy thương má.

Nhà có bao nhiêu đồ đạc tiện nghi hiện đại nhưng má chỉ xài toàn đồ cũ. Vậy mà bao nhiêu lần tôi cau có bảo má mở nhỏ tivi để khỏi ảnh hưởng đến chương trình của tôi. Những hôm tôi đi làm về muộn, má cặm cụi cả ngày bên bếp dầu cũ để cả nhà vẫn có cơm canh nóng sốt, vậy mà tôi chẳng đụng đũa đến, bảo ăn ở cơ quan rồi.
Giờ tôi mới nhận ra má tôi cô đơn biết chừng nào trong những năm qua dù đang sống bên con cháu.

Friday, August 17, 2007

"Đối ngoại hữu kỳ tâm -- Đối nội vô tâm giả"

Kèm theo đây là một bức ảnh Chúa Giêsu có hai câu đối "ĐỐI NGOẠI HỮU KỲ TÂM - ĐỐI NỘI VÔ TÂM GIẢ" do Đức Hồng Y GB. Phạm Minh Mẫn tặng các chủng sinh Đại chủng viện nhân ngày mặc áo dòng của các thầy vào cuối tháng 6 năm 2007.


Có một thầy được nghe ý nghĩa của 2 câu đối do ĐHY giảng nghĩa làm tâm đắc viết kinh nguyện trên và truyền bá cho chúng tôi cùng đọc và cầu nguyện cho các thầy.

Lạy Chúa,
xin cho con quả tim của Chúa.

Xin cho con đừng khép lại trên chính mình,
nhưng xin cho quả tim con quảng đại như Chúa,
vươn lên cao, vượt mọi tình cảm tầm thường
để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ.

Xin cho con vượt qua mọi hờn oán nhỏ nhen,
mọi trả thù ti tiện.

Xin cho con cứ luôn bình an, trong sáng,
không một biến cố nào làm xáo trộn,
không một đam mê nào khuấy động hồn con.

Xin cho con đừng quá vui khi thành công,
cũng đừng quá bối rối khi gặp lời chỉ trích.

Xin cho quả tim con đủ lớn
để yêu người con không ưa.

Xin cho vòng tay con luôn rộng mở
để có thể ôm cả những người thù ghét con.

AMEN
.

ĐÔI MẮT

"Mắt em là một dòng sông
Thuyền ta bơi lặng trong dòng mắt em"
(Lưu Trọng Lư)

Mắt là cảm hứng cho thi sĩ. Nhạc sĩ cũng viết thành cung đàn. Mắt là hồn cho thơ, là sóng cho nhạc. Có người nhìn đôi mắt như mùa thu. Có người nhìn đôi mắt như dòng sông. Trong văn chương, nghệ thuật, cảm hứng về mắt bao giờ cũng là đôi mắt đẹp.

Trái lại, khi Phúc Âm nói về mắt lại nói đôi mắt mù!

Mắt nhìn được ngoại vật, nhưng nó không nhìn được chính nó. Có phải đấy là điều để nhắc nhở tôi: Tôi có thể nhìn thấy nhiều thứ, nhưng sự hiểu biết quan trọng nhất là biết chính mình thì tôi lại u mê?

Mắt là để nhìn. Đấy là bản tính của mắt. Cũng như ánh sáng là để soi tan bóng tối. Mắt không cần trang điểm, mắt vẫn nhìn thấy. Mắt không cần tô hồng, mắt vẫn là mắt. Khi người ta trang điểm cho mắt, lúc đó, mục đích không phải là để nhìn mà là để mắt được nhìn. Có khi người ta chỉ vì quá muốn mắt được nhìn, nên mắt đã không nhìn được.

Mắt là để nhìn. Nhưng cái nhìn của mắt không như chiếc máy chụp hình. Mắt nhìn để nói. Mắt nhìn để hiểu. Mắt nhìn để thông cảm. Mắt nhìn để chê bai. Nhưng để hiểu, để rung cảm, để giận ghét, để yêu thương lại là phạm vi của tâm hồn. Mắt thơ ngây. Mắt bao giờ cũng đáng yêu. Tự bản tính của mắt, mắt bao giờ cũng vô hồn. Tâm hồn là người có trách nhiệm. Vì thế, người ta không nói kẻ có đôi mắt đẹp thì tâm hồn đẹp. Nhưng là kẻ có tâm hồn đẹp thì bao giờ cũng có đôi mắt trong. Đôi mắt của trẻ thơ đã nói lên điều đó.

Nhiều người đã sa ngã vì những đôi mắt biết dỗi hờn. Nhiểu kẻ đã say những cặp mắt biết liếc nhìn quyến rũ. Sỡ dĩ có những đôi mắt ấy vì phải có người yêu những vẻ đẹp đó nên mới có kẻ làm khí giới tấn công. Và, nếu những xao xuyến rung động, những tình yêu chỉ vì đôi mắt ấy thì cũng giống như Eva, chỉ nhìn thấy màu hồng của vỏ trái táo chứ không thấy bóng sâu ở trong.

Người có đôi mắt đẹp là người không đánh lừa kẻ khác bằng đôi mắt của mình. Kẻ có đôi mắt đẹp cũng không để mình bị đánh lừa bằng đôi mắt người khác. Mắt đẹp là mắt nhận ra giá trị thật và chỉ ngắm nhìn những giá trị đó.

Trong cuộc sống gia đình, nhiều đôi mắt không nhìn ra nét đẹp nơi người yêu mình. Nhưng lại thấy vẻ đẹp nơi người yêu của kẻ khác. Thấy thèm muốn nhưng không thấy giới hạn. Nhiều đôi mắt chẳng nhận ra đâu là hạnh phúc mình phải đem đến cho người bạn đời. Nhưng lại nhìn ra những nhu cầu của mình bắt tha nhân mang tới. Thấy đòi hỏi nhưng không thấy bổn phận.

Mắt giữ vai trò quan trọng trong lịch sử cứu rỗi của loài người. Ngay những chương đầu của sách Khải Nguyên đã nói về mắt:

Rắn đã nói với người đàn bà: Chẳng chết chóc gì đâu! Quả Thiên Chúa biết, ngày nào các người ăn nó, mắt các ngươi sẽ mở ra, và các ngươi sẽ nên như Thiên Chúa, biết cả tốt xấu. Và người đàn bà đã nhìn: quả là cây ăn phải ngon.

Sau khi nhìn rồi, Kinh Thánh kể tiếp cái nhìn của Eva: " Mà nhìn thì đã sướng mắt. Nó đáng quý thực, cái cây ấy để được tinh khôn. Và bà đã ăn". Sau khi ăn rồi, Kinh Thánh kết luận về đôi mắt của cả hai người như sau: "Và hai cả hai người đã mở ra. Và chúng biết là chúng trần truồng (Kn 3:4-7)"

Đoạn Kinh Thánh nói về lịch sử sa ngã của loài người đã đề cập đến mắt qua ba tiến trình:

Rắn hứa là mắt của Adong và Eva sẽ mở ra.

Eva đã nhìn vào trái táo và thấy sướng mắt.

Mắt hai người đã mở ra và thấy mình trần truồng.

Rắn hứa là mắt hai ngưới sẽ mở ra để nhìn thấy mọi sự như Thiên Chúa. Nhưng mắt đức tin của cả hai đã nhắm lại nên không nhìn thấy điều mình muốn nhìn sẽ đem lại đổ vỡ cho cuộc đời. Họ đang thấy chung quanh họ là mùa hoa nở rộ, là những đồi cỏ bình yên, là những giải nắng hiền, dòng suối êm. Nhưng chỉ nhìn như thiên Chúa, nên cỏ bình yên thành cỏ dại, suối hiền cạn khô, nắng thành vất vả, hoa thôi lên màu.

Chỉ vì muốn nhìn những điều không thể nhìn được nên mặt họ chẳng còn nhìn thấy những điều họ đã thấy nữa.

"Mà nhìn thì đã sướng mắt ". Đó là tâm trạng của Eva. Cái nhìn ấy phải là đắm đuối. Bằng cái nhìn "sướng mắt" ấy mà tội lỗi đã vào thế gian. Qua một cái nhìn mà hạnh phúc thành rách nát. Lịch sử vũ trụ thay đổi. Tang thương.

Lời hứa của rắn đã hiệu nghiệm. Mắt của hai người đã mở ra. Nhưng không phải mở ra để nhìn thấy vẻ đẹp mà để nhìn thấy mình trần truồng. Trần truồng là biểu tượng của hèn hạ, của nghèo đói, của nhục nhẳn. " Mắt hai người đã mở ra". Câu kinh Thánh thật ngắn ngũi, nhưng sự tinh tế và đau thương nằm ở đó. " Mắt hai người đã mở ra". Nhưng đồng thời cũng là giây phút đóng lại. Mở mắt để thấy trước mặt là tan tác, chia phôi. Mở mắt để thấy trước mặt là hệ luỵ. Mở mắt để thầy mình trơ trụi. Mở mắt để biết rằng minh không còn thấy những gì mình muốn thấy.

Adong-Eva đã mở mắt. Nhưng họ lẩn trốn không dám nhìn Chúa. Cả hai đã mở mắt. Nhưng để tìm lá che thân, không dám nhìn nhau. Như thế, mở mắt có ích gì? Có những mở mắt nguy hiểm. Có những mở mắt gieo khổ ải. Không nhìn những điều phải nhìn là thiệt thòi. Nhìn những điều không nên nhìn cũng là mất mát như thế. Khởi đầu của lịch sử nhân loại đã không phải là lịch sử có đôi mắt thơ mộng, mà là đôi mắt mù loà.

Rồi sự mù loà ấy chảy dọc theo thời gian. Chúa Kitô đã đến trong Tân Ứớc để hàn gắn sự mù loà xảy ra những trang đầu của Cựu Ước đó. Chúa không bao giờ từ chối chữa người mù. Trong cuộc đời rao giảng tin mừng, nếu có người mù kêu xin là Chúa động lòng xót thương và chữa họ ngay. Sự mù loà nói đến trong Tân Ước đã có nguyên do từ sự mù lòa khởi nguyên ngay ở vườn địa đàng. Chúa đến để chữa vết thương kéo dài từ biến cố đó. Đặt những phép lạ Chúa chữa người mù trong Tân Ước với bối cảnh mù lòa khởi nguyên của Adam-Eva ta mới thấy ý nghĩa sâu xa vì sao Chúa đã đến trong thế gian. Và nếu ý thức được rằng, từ bắt đầu, dòng suối đã mù lòa thì nước suối làm sao trong, ta sẽ nhận ra một ý nghĩa khác, đó là phải chấp nhận rằng mình mù lòa, và cần Chúa chữa sự mù loà ấy.

Phúc âm thánh Gio-an có thuật lại phép lạ của Chúa chữa một người mù. Đặt biệt Gio-an kể rõ chi tiết là " mù từ lúc mới sinh". Các Phúc âm khác chỉ nói chữa người mù, không nói chi tiết mù như thế nào. Vì sao Thánh Gio-an lại nhấn mạnh điểm đó? Phải chăng "mù từ lúc mới sinh" là mù từ thuở xa xưa lắm rồi. Là mù từ thuở địa đàng. Là mù gốc rễ trong tâm hồn tôi. "Từ trong tà ác tôi đã sinh ra" (Tv 51:7)

Một chi tiết quan trọng khác mà Thánh Gio-an đã nói đến là Chúa chữa người mù "từ thuở mới sinh" trong ngày "sabath". Ngày sabath là ngày không được phép làm gì cả. Đây là luật rất ngặt của người Do Thái. Chính vì thế Chúa đã bị kết án. Có phải Chúa đã chữa người mù, cho dù là ngày sabath vì mù loà là một bất hạnh ghê gớm, một thiệt thòi nguy hiểm? Chúa không thể chấp nhận mù! Như vậy, chẳng có lý do nào Chúa lại chậm trễ chữa sự mù loà của tâm hôn tôi. Sứ mạng của Chúa là: " Người đã sai Lời Người đến chữa họ, và giật sinh mạng họ ra khỏi mồ chôn" (Tv. 107:20)

Trong câu chuyện chữa người mù, ta thấy sự khác biệt tàn nhẫn giữa đôi mắt người mù và đôi mắt của các thầy Pharisiêu. Đôi mắt thân xác của người này mù, nhưng mắt tâm hồn ông lại sáng. Ông nhận ra Chúa là người có thể chữa cho ông, nên ông đã đến suối Siloam rửa mắt như lời Chúa dạy. Các thầy biệt phái đã có đôi mắt không mù lòa, nhưng đôi mắt tâm hồn đã chết. Họ đã nói với người mù về Chúa như sau: " Chúng ta biết tên đó là một người tội lỗi" (Gn 9:24)

Không có sự tăm tối nào lại mù lòa hơn sự mù lòa của những đôi mắt sáng ấy. Bởi đó, thấy mặt trời vẫn có thể là sống trong bóng đêm. Trong bất hạnh của thân xác vẫn có thể nhìn ra chân lý. Điều ấy nói cho tôi biết trong đau khổ tật nguyền, hạnh phúc vẫn có thể nở hoa, kết tái xum xuê. Trong những hiều biết trần thế. Biết đâu là một cõi lòng khô héo ân sủng thiêng liêng. Rồi, vì thế, đằng sau những đôi mắt đẹp, có thể là một màn đêm lạnh lẽo, một tâm hồn trống trải, buồn tênh.

Đôi mắt dễ thương chỉ có nơi tâm hồn duyên dáng. Lo trang điểm cho đôi mắt mà không làm đẹp tâm hồn là chỉ muốn người ta nhìn mắt mình, chứ mắt mình không nhìn được điều phải nhìn. Có người tốn rất nhiều tiền để làm đẹp mắt, nhưng tiếc xót gởi một thùng quà cho bạn bè thân nhân nghèo khó ở bên nhà. Ngại ngùng bỏ ra tiền để sửa chữa một ngôi thánh đường đang sụp đổ. Quá muốn mắt mình được nhìn nên đã không nhìn thấy điều Chúa muốn họ thấy.

" Toàn thân mày, mày sinh ra trong bóng tối, mà mày lại làm thầy dạy chúng ta ư!" Sau khi mắng người mù thư thế, Phrarisieu trục xuất ông (Gn. 9:34). Người mù đã bị đuổi ra khỏi hội đường vì dám chấp nhận Chúa là Thầy chữa cho mình. Chúa đã hỏi người mù : " Còn ngươi, ngươi có tin vào con người không? " Ông ta đáp lại: "Lạy Ngài, tôi tin" (Gn 9:35-38). Như vậy, để nhìn thấy Chúa, ông đã phải trả một giá đắt. Những đôi mắt dám nhìn sự thật nhiều khi là những đôi mắt ướm lệ.

Phúc Âm thánh Máccô cũng nói về mắt. Người mù lên tiếng: " Lạy thầy, xin cho tôi thấy được". Đức Kitô bảo hắn: " Hãy đi! Lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi". Rồi, dòng chữ cuối cùng nói về đôi mắt đó là dòng chữ đẹp bát ngát của một bầu trời mới, một tâm hồn vô cùng thênh thang:

Lập tức hắn đã thấy được. Và theo Ngài lên đường (Mc. 10:52)

Người mù đã không trở về để lập nghiệp làm ăn, nhưng lên đường theo Chúa. Lúc này là lúc Chúa đang trên đường về Jerusalem để chịu chết. Ông đã thấy gì mà dám lên đường theo một kẻ sắp bị đóng đinh?

Nói về đôi mắt, Chúa quở trách rằng :" Họ nghe mà không hiểu, nhìn mà không thấy. Tâm hồn họ ra chai đá rồi " (Mt. 13:14). Như vậy, Chúa xác định tâm hồn có trách nhiệm về cái nhìn.

Hôm nay, không thiếu bao tiếng khóc. Có tiếng khóc âm thầm. Có tiếng khóc lo âu. Tiếng khóc nghèo đói. Tiếng khóc lạc lõng trong cuộc sống. Tiếng khóc lặng lẽ của cõi lòng chán chường. Tiếng khóc che kín bằng tiếng cười ở giữa đám đông. Nước mắt ở khắp nơi.

Biết bao tâm hồn chỉ vì nghèo đói mà sống mất phẩm giá con người. Những người mẹ bên Phi Châu ngồi khóc vì đói, vì đôi vú không còn sữa cho con. Những đôi mắt trẻ thơ ruồi bu quanh. Đấy là hình ảnh Chúa Kitô. Ngài đang lang thang và chẳng có ai nhìn.

Có đôi mắt liếc nhìn quyến rũ.
Có đôi mắt trang điểm.
Có đôi mắt rình mò.
Có đôi mắt để chọn quần áo.
Có đôi mắt để đếm tiền.
Có đôi mắt để nhìn người yêu.

Những tiếng khóc đau khổ vẫn không ai muốn nghe. Những nghèo đói vẫn không ai muốn nhìn. Có phải chỉ có đôi mắt đức tin mới nhìn thấy Chúa Kitô đang nghèo, đang túng thiếu. Chia cái nghèo, chia cái túng thiếu, chỉ có đôi mắt tình thương mới dám nhìn.

Hai ngàn năm trước Chúa đã than thở: " Họ nghe mà không hiểu, nhìn mà không thấy vì tâm hồn họ ra chai đá rồi " (Mt. 13:14). Hôm nay, nếu mắt không nhìn những điều phải nhìn. Nhìn mà không thấy những điều phải thấy. Thấy mà chẳng hiểu những điều phải hiều thì Chúa cũng chỉ biết than thở như hai nghìn năm xưa: Vì tâm hồn họ ra chai đá rồi .

Lm. Nguyễn Tầm Thường, S.J.

Thursday, August 16, 2007

Chiếc Áo Từ Nhân

Marie Paranov, một bá tước phu nhân người Nga, đang trên đường đi Menton, bên Ðức để chữa bệnh lao phổi. Ngồi một mình trong toa xe lửa bà cảm thấy cô đơn lạc lõng. Người lão bộc Ivan cùng đi, chỉ đến toa của bà thăm hỏi và chờ lệnh của bà ở mỗi lần xe ngừng lại tại trạm nghỉ mà thôi.

Ðêm xuống dần trong khi tàu vẫn chạy nhanh, phu nhân cảm thấy khó ngủ nên bà mở ví ra trút hết những đồng tiền vàng trên lòng bàn tay và bắt đầu đếm, vì chồng bà đã cho bà một số tiền để hộ thân. Bỗng, bà cảm thấy một luồng gió lạnh tạt vào. Ngẩng lên, bà bắt gặp một người đàn ông cao lớn, ăn mặc chỉnh tề lịch sự và bị thương ở tay đi vào toa xe của bà. Ông ta đóng cửa lại và nhìn bà với đôi mắt đen nhánh. Bà run sợ quá đến nỗi những đồng tiền vàng rơi xuống sàn tàu. Người lạ mặt nhìn những đồng tiền vàng ấy và cúi xuống nhặt lên. Thừa cơ hội, bá tước phu nhân đứng dậy chạy ra phía cửa sổ định nhảy xuống tàu. Biết ý định của bà, ông ta nắm giữ bà lại và xin bà ngồi xuống rồi nói:

- Thưa bà, hãy nghe tôi. Tôi không phải là tên gian phi, tôi nhặt tiền này để trả lại cho bà. Tôi sẽ chết nếu bà không giúp tôi qua khỏi biên giới. Khoảng một giờ sau tôi phải có mặt ở trạm cuối cùng của nước Nga, mười phút sau đó tôi phải có mặt ở một nước khác. Nếu bà không cứu giúp tôi, tôi sẽ bị bắt, tôi không thể giải thích tại sao, nhưng xin bà hãy tin tôi. Tôi không sát nhân, không trộm cắp, không làm điều gì sai quấy. Tôi lấy danh dự thề với bà, xin bà hãy cứu giúp tôi.

Bà bá tước phu nhân lặng thinh, lấy lại bình tĩnh dần dần, còn ông ta thì ngồi bất động mắt nhìn về phía trước. Thỉnh thoảng, bà liếc nhìn ông thật nhanh. Tàu lướt chạy nhanh trong đêm tối rồi dừng lại ở một trạm nghỉ. Người nô bộc Ivan đến cửa toa để nhận lệnh của bà. Bà nhìn người bạn đồng hành xa lạ rồi nói với lão nô bộc:

- Ivan, ta không cần ngươi theo ta đến Menton nữa, hãy lấy tiền này mà mua vé trở lại Saint Peterbourg. Cảm ơn lão đã giúp ta, hãy cho ta cái áo khoác, cái mũ và cái giấy thông hành của lão.

Người nô bộc không hiểu chuyện gì đã xảy ra. Nhưng theo lệnh của chủ, ông lột mũ, cởi áo khoác và trao giấy thông hành cho bà rồi ra đi. Bá tước phu nhân nói với người khách lạ:

- Hãy mặc áo, đội mũ vào. Bây giờ ông là Ivan, người nô bộc của tôi. Tôi chỉ cần điều kiện duy nhất là việc gì tôi làm cho ông, ông không được nói gì cả. Tôi không muốn bất cứ điều gì ngay cả khi ông chỉ nói với tôi một tiếng cám ơn.

Người khách lạ gật đầu, không nói một câu, im lặng làm theo ý bà. Chẳng bao lâu, tàu dừng lại lần nữa, nhiều cảnh sát đi vào toa. Bá tước phu nhân kiêu hãnh nói với họ:

- Tôi là bá tước phu nhân Paranov ở Saint Peterbourg, và đây là người đầy tớ Ivan của tôi.

Bà đưa cho viên sĩ quan coi giấy thông hành. Xem xong, họ trả lại bà. Trong đêm đó, hai người đều im lặng. Sáng hôm sau, tàu ngừng tại Menton. Ðây là trạm cuối cùng. Hai người chào từ giã nhau mà không nói với nhau một lời.

**********************

Tất cả những diễn biến trong chuyến tàu đêm ấy đã phát xuất từ trái tim đầy từ bi và nhân hậu của bá tước phu nhân. Chiếc áo khoác của người nô bộc Ivan đã trở thành chiếc áo từ nhân khoác lên một người cần lòng bao dung cứu giúp. Chiếc áo từ nhân ấy đã trở thành chiếc áo an toàn cho một người cần vượt biên giới. Trước một người van nài lòng thương xót, chiếc áo nô bộc đã trở thành chiếc áo từ nhân.

Biết bao nhiêu người chung quanh chúng ta đang cần một chiếc áo từ nhân để mong được sự an toàn trong cuộc sống, vượt qua biên giới sự xấu để trở thành một người tốt. Thế giới chúng ta đang sống là một thế giới duy vật và thực nghiệm, mọi sự đều phải được kiểm chứng rõ ràng, dùng kiến thức để suy luận, dùng máy móc để phân định, dùng phán đoán của đám đông để kết luận, nhưng chỉ có tình người mới đo được chiều sâu và hiểu được hành động và ngôn ngữ của yêu thương.

Trong cái nhìn đức tin của kitô giáo, mỗi người sinh ra trên cõi đời này là một giá trị độc nhất, bởi vì mỗi người đều mang lấy hình ảnh của Thiên Chúa. Giàu sang, nghèo hèn, thông minh hay ngu đần dốt nát, tất cả mọi người đều bình đẳng trong phẩm giá và nguyên vị khác biệt bất khả xâm phạm. Một con người dù có lầm lỗi bất toàn về thể xác cũng như tinh thần thì từ thâm sâu của cõi lòng họ vẫn còn ấp ủ một dấu tích tốt lành. Hãy trao tặng nhau những chiếc áo từ nhân, càng trao ban chúng ta càng lớn lên trong nhân cách. Thiên Chúa yêu thương đã bao phủ trên chúng ta biết bao nhiêu chiếc áo từ nhân của Ngài. Hãy nghĩ đến những hồng ân đó mà sẵn sàng trao ban một nhân ái, một ánh mắt cảm thông, một cử chỉ tha thứ, một lời nói xây dựng, một trang viết kính trọng.

**********************

Lạy Chúa, xin giúp mỗi người chúng con luôn mau mắn khoác chiếc áo từ nhân cho những người gần chúng con nhất từ trong gia đình, nơi trường học, tại công sở, nơi phố phường, chốn công viên. Nhờ đó, chúng con sẽ có một thái độ, một cái nhìn khác về đạo đức và luân lý hợp với lẽ đạo làm người như Ðức cố hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã nói: "Khi con sống trọn đạo làm người, là con sống trọn đạo Chúa". Amen!

R. Veritas

Wednesday, August 15, 2007

Những con sâu róm trên cây tình yêu

Khi bạn cảm thấy tình yêu của mình dường như đang vơi cạn hoặc đang từ bỏ bạn, thì đó không phải là cảm giác "ngẫu nhiên" mà nó đã có những dấu hiệu báo trước. Giống như có những con sâu róm đang chậm rãi gặm cái cây tình yêu của bạn, cho tới một ngày nó tuyên bố "tử trận".

Từng con sâu róm có những cái tên khác nhau:

- Có một con tên là "ghen". Khi còn nhỏ nó có màu sắc gần giống với màu của tình yêu. Mới đầu nó nhỏ nhẹ làm nũng, bạn cảm thấy nó rất đáng yêu. Nhưng một khi ghen mất đi sự kiềm chế thì sẽ tăng trưởng và từ từ hủy hoại cành lá của cây tình yêu.

- Có một con tên là "lạnh nhạt". Lạnh nhạt mới đầu có vẻ khách khí và cẩn thận từng li từng tí, vì nó cũng không muốn làm tổn hại đến cây tình yêu của mình. Nhưng thời gian lâu dần nó lặng lẽ nhả ra những sợi tơ cứng chắc, quấn chặt cây tình yêu làm cây khô héo.

- Có một con được gọi là "phẫn nộ". Bình thường nó nằm yên ẩn mình, không một ai phát hiện nó. Nhưng khi bộc phát, nó có thể giết chết cây tình yêu chỉ trong một đêm!

- Có một con tên là "ngừng trệ". Ngừng trệ rất an toàn, xem ra nó có độ nguy hiểm thấp nhất. Nhưng nó lại trút vào cây tình yêu kích thích tố phản sinh trưởng khiến cây lâu ngày trở nên xơ xác.

- Một con được gọi là tự chuốc lấy "phiền phức". Nó rất kém thông minh, luôn muốn gặm sạch cuống lá nơi nó trú ngụ, bị ngã chổng vó lên trời nó vẫn kiên nhẫn bò dậy, leo lên cây và làm lại việc như vậy...

Hãy cẩn thận với những con sâu róm này, tình yêu có thể bị chúng gặm sạch, không cây nào "miễn dịch" nổi với sâu róm cả!

(sưu tầm)

SAI LẦM CỦA NGƯỜI THẦU KHOÁN

Một người cha đến dự phiên họp giữa thầy cô và phụ huynh trong một trường trung học ở Chicago. Trong lúc nói chuyện với thầy giáo, người cha đã bật khóc nức nở. Sau khi lấy lại bình tĩnh, người cha xin lỗi và nói: "Con tôi không còn sống chung với tôi nữa. Nhưng tôi vẫn yêu thương cháu và tôi muốn biết việc học hành của cháu như thế nào."

Sau đó ít lâu người cha cho biết thêm là vợ ông và bốn đứa con đã không còn sống bên ông nữa. Ông là một nhà thầu khoán xây cất thành công và rất bận rộn với công việc, nhiều khi ông phải làm việc đến 14, 15 giờ một ngày. Đương nhiên, với sự bận rộn của công việc như vậy, ông ít gặp gia đình vợ con, và dần dà ông càng xa vợ con hơn.

Một thời gian sau đó, người cha nói lên một điều thật buồn thảm : "Tôi muốn mua cho vợ con tôi những gì mà tôi hằng mơ ước mua cho họ. Nhưng rồi tôi quá bận tâm làm ăn đến độ tôi quên đi điều mà gia đình tôi cần đến nhất: đó là một người cha, một người chồng luôn có mặt trong gia đình hằng đêm để yêu thương và nâng đỡ vợ con."

* * * * *

Bạn thân mến, chúng ta có thể quá bận tâm làm việc đến độ quên đi lý do tại sao chúng ta làm việc. Chúng ta có thể quá bận tâm đến đời sống đến độ quên đi mục đích của đời sống. Chúng ta có thể quá bận tâm theo đuổi những gì có thể mua được bằng tiền bạc mà quên đi những gì tiền bạc không thể mua được.

Ngày nay chúng ta sống trong một thế giới thật khác biệt. Thật dễ để đánh mất sự quân bình trong thế giới ngày nay. Thật dễ để đánh mất cái nhìn xa trông rộng. Thật dễ để xáo trộn những gì là ưu tiên. Thật dễ để đánh mất khả năng nhận ra những gì cần làm và tại sao chúng ta làm công việc ấy.

Trong thế chiến thứ hai, một người lính trẻ trấn đóng ở hòn đảo Saipan thuộc Nam Thái Bình Dương cho biết trong thời gian nghỉ ngơi, anh và bạn hữu đến bơi ở một bờ biển vắng vẻ kín đáo ngay ở mé hòn đảo. Đó là một nơi thật đẹp có núi đá bao quanh.

Khi đến nơi, họ thấy nước thật trong đến nỗi có thể nhìn thấy cá bơi lội sâu dưới nước cả 10 feet. Tuy nhiên, sau khi họ bơi lội chừng một tiếng đồng hồ, nước trở nên đục ngầu vì cát bị khuấy động, họ không còn nhìn thấy được dưới đáy dù chỉ cách có một feet. Nhưng ngày hôm sau, khi họ trở lại, cát đã lắng đọng, nước lại trong trẻo như trước.

Tâm trí chúng ta cũng như vũng nước đó. Nó cũng có thể vẩn đục vì những biến động trong cuộc sống hằng ngày khiến chúng ta không còn nhìn thấy rõ ràng. Chúng ta mất khả năng nhìn thấy mọi sự: quan điểm của chúng ta trở nên mù mờ; những ưu tiên của chúng ta trở nên hỗn độn; sự quân bình của chúng ta đã bị mất.

Khi điều này xảy ra, việc chúng ta cần làm là tạm ngừng tất cả và để nước đục của tâm trí trở nên trong trẻo lại. Chúng ta cần ngồi dưới chân Đức Giêsu trong sự thinh lặng cầu nguyện. Chúng ta cần để Người dạy chúng ta biết điều gì là quan trọng và điều gì là không đáng kể.

Điều này nêu lên một câu hỏi: Nếu chúng ta quá bận rộn đến độ mất cả thói quen cầu nguyện thì sao? Nếu chúng ta không biết thinh lặng cầu nguyện dưới chân Đức Giêsu thì sao? Chúng ta có thể làm gì để biết cách cầu nguyện?

Thật may mắn là chúng ta có thể thi hành vài điều gì đó. Và chúng ta có thể bắt đầu ngay vào tối hôm nay. Chúng ta có thể áp dụng phương pháp cầu nguyện thật đơn giản, nó đã từng giúp đỡ nhiều người như chúng ta để thực tập thói quen cầu nguyện và biết được nghệ thuật cầu nguyện: Việc cầu nguyện đơn giản đó là:

Mỗi đêm trước khi đi ngủ, chúng ta cần dành ra ba phút để làm ba điều:

- Thứ nhất, hãy thinh lặng và nhớ lại những gì đã xảy ra trong ngày. Chúng ta nhớ đến các điều tốt đẹp khiến chúng ta vui sướng, thí dụ như nhận được thư của người thân yêu . Sau đó, chúng ta thành thật nói với Đức Giêsu về điều đó, và hãy cảm tạ Đức Giêsu vì lá thư ấy.

- Trong phút thứ hai, hãy nhớ đến những gì xảy ra trong ngày. Nhưng lần này hãy nhớ đến điều không tốt, điều làm chúng ta hối hận, thí dụ như la hét cha mẹ, vợ chồng hay con cái. Chúng ta nói với Đức Giêsu về khuyết điểm này và xin ơn tha thứ và chữa lành.

- Sau cùng, trong phút thứ ba, Hãy nhìn đến ngày hôm sau, nghĩ đến một vài điều quan trọng phải làm, thí dụ như việc nói chuyện ôn hòa với cha mẹ, vợ chồng hay con cái... Chúng ta nói với Đức Giêsu về điều đó và xin Người soi sáng, thêm sức mạnh để chúng ta có thể thi hành một cách tốt đẹp.

Phương cách cầu nguyện đơn giản này đã giúp nhiều người tìm được thói quen cầu nguyện và học được nghệ thuật cầu nguyện. Điểm tuyệt vời của phương cách cầu nguyện này là không những giúp chúng ta có quan hệ tốt với nhau trong đời sống thực tế hằng ngày mà còn giúp chúng ta có liên kết chặt chẽ với Đức Giêsu.

* * * * *

Lạy Chúa, xin giúp chúng con đừng quá bận tâm đến đời sống mà quên đi lý do tại sao Ngài đã ban sự sống cho chúng con.

Xin giữ chúng con đừng quá bận tâm đến đời sống mà quên đi mục đích của nó.

Xin giữ chúng con đừng quá theo đuổi những gì mà tiền bạc có thể mua được rồi quên đi những gì tiền bạc không thể mua được. Amen

LM. Mark Link, S.J.